Sau sắp xếp, các tỉnh, thành vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đều hướng ra biển, với tiềm năng to lớn. 5 tỉnh thành trong vùng sở hữu hơn 700km đường bờ biển, cùng các cửa ngõ vươn ra đại dương được mở, hứa hẹn giảm đáng kể chi phí logistics cho 70% hàng hóa xuất khẩu của vùng.

Tại Tọa đàm “Phát triển kinh tế biển – Động lực phát triển bền vững ĐBSCL” mới đây, GS.TS Nguyễn Thanh Phương – Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Cần Thơ cho biết, Đảng và Nhà nước ta đã có những định hướng chiến lược rất rõ ràng về phát triển kinh tế biển được thể hiện tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nghị quyết này xác định “Phấn đấu đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn về biển”.

Tiếp đó, Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 2/4/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 tiếp tục khẳng định vai trò then chốt của kinh tế biển đối với sự phát triển toàn vùng.

Không chỉ là “thủ phủ” thủy sản lớn nhất cả nước về quy mô và giá trị, ĐBSCL còn là đại diện tiêu biểu cho ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản của Việt Nam. Tính đến tháng 5/2025, vùng này chiếm gần 28% tổng số tàu cá cả nước – khoảng 82.175 tàu đã được cập nhật trên hệ thống VNFishbase – và đóng góp tới 35% tổng sản lượng thủy sản khai thác quốc gia (tương đương 3,4–3,6 triệu tấn mỗi năm).

W-kinhtebien.png
Đồng bằng sông Cửu Long đang sở hữu những lợi thế vàng để trở thành trung tâm kinh tế biển bền vững. Ảnh minh họa

Đặc biệt, hoạt động nuôi biển tại đây đang dần chuyển mình mạnh mẽ với việc ứng dụng công nghệ cao vào nuôi cá chẽm, cá bớp, nhuyễn thể (ngao, hàu) và đặc biệt là rong biển - mở ra một hướng đi mới, bền vững.

Song song với đó, các địa phương ven biển như Phú Quốc, Hà Tiên, Cà Mau đang trở thành điểm đến hút khách du lịch, trong khi các dự án điện gió ngoài khơi, cảng biển, năng lượng tái tạo và dịch vụ logistics cũng đang hình thành – tạo ra động lực phát triển kinh tế biển toàn diện cho toàn vùng.

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên thì vùng cũng gặp không ít những thách thức. Điển hình như, nguồn lợi thủy sản đang dần cạn kiệt, đặc biệt ở khu vực ven bờ; sản lượng khai thác có xu hướng giảm sút; cảnh báo "thẻ vàng" IUU từ EU từ năm 2017 đến nay vẫn còn hiệu lực, do tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài, thiếu minh bạch trong truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

Cùng với đó, cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi biển còn yếu kém, thiếu quy hoạch bền vững, đối mặt nguy cơ ô nhiễm và rủi ro cao về môi trường. Lĩnh vực du lịch - dịch vụ biển vẫn còn thiếu liên kết, sản phẩm chưa đa dạng, hoạt động quảng bá chưa hiệu quả và tiến độ quy hoạch còn chậm.

Trước thực tế đó, đòi hỏi ĐBSCL cần một chiến lược phát triển dài hơi, có sự đồng hành của các bộ ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp để thúc đẩy phát triển kinh tế biển một cách đồng bộ, hiệu quả và bền vững.

PGS.TS Hà Thị Ngọc Oanh – Trưởng ban Kiểm tra Hiệp hội Phát triển Nhân lực Logistics Việt Nam (VALOMA) cho rằng, ĐBSCL đang được Chính phủ và các bộ, ngành đặc biệt quan tâm. Với 734km bờ biển, vùng này có điều kiện thuận lợi để phát triển vận tải thủy, cả đường sông lẫn đường biển. Ngoài ra, đây còn là trung tâm nông sản – thực phẩm, có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo, du lịch và các ngành dịch vụ đi kèm.

Bà đề xuất 4 nhóm giải pháp trọng tâm như: Huy động tối đa các nguồn lực để đầu tư hạ tầng kết nối (ngân sách nhà nước, xã hội hóa, vốn ODA…); Đẩy mạnh chuyển đổi số trong logistics, đào tạo nhân lực chuyên sâu phục vụ phát triển kinh tế biển; Phát triển hệ thống hạ tầng giao thông, nhất là đường bộ và lựa chọn đầu tư các cảng biển có khả năng tham gia chuỗi logistics quốc tế; Hoàn thiện hệ thống logistics hiện đại, kết nối hiệu quả với các cảng trọng điểm như Trần Đề, Cần Thơ và xây dựng các trung tâm logistics khu vực.

Về khai thác thủy sản, cần chú trọng phát triển khai thác vùng khơi hiệu quả, giảm cường lực phù hợp với trữ lượng; tổ chức lại hoạt động khai thác vùng lộng và ven bờ; kết hợp phát triển sinh kế ngư dân, du lịch sinh thái và nghề cá giải trí. Đồng thời, tuân thủ quy tắc nghề cá có trách nhiệm, chống khai thác IUU, áp dụng công nghệ mới, cơ giới hóa và hiện đại hóa tàu cá nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch xuống dưới 10% vào năm 2030.

Trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, cần đẩy mạnh phát triển quy mô công nghiệp ở các vùng biển mở, tập trung vào các loài có giá trị kinh tế cao và thân thiện môi trường; khuyến khích mô hình nuôi hữu cơ, sinh thái, áp dụng tiêu chuẩn GAP để gia tăng giá trị và hướng tới phát triển bền vững.