Gần đây, có nhiều quan ngại về chỉ số nghiên cứu cạnh tranh thế giới của Việt Nam. Mặc dù VN hiện nay có khoảng 9.000 GS, Phó GS cùng với khoảng hơn 24.300 tiến sĩ nhưng kết quả nghiên cứu khoa học của VN tụt xa so với các nước ASEAN.
Trong thời gian 10 năm (từ 1996 - 2005), các nhà khoa học nước ta chỉ công bố 3.456 công trình nghiên cứu khoa học trên các tập san quốc tế theo chỉ số ISI. Kết quả này chỉ bằng 1/5 so với Thái Lan; 1/3 so với Malaysia; và 1/14 so với Singapore.
Trong thời gian từ 2006 đến 2010, VN chỉ có năm bằng sáng chế được đăng ký tại Mỹ, trung bình mỗi năm có một bằng sáng chế.
Ngoài những nguyên nhân về sự bất cập, chồng chéo trong quản lý khoa học giữa các viện, việc tách rời giảng dạy và NCKH ở các trường ĐH, thiếu hụt các nhà NCKH tài năng, mà báo chí đã đề cập nhiều, bài viết dưới đây xin tập trung vào một vài nguyên nhân cơ bản ở phạm trù quản lý mang tính vĩ mô.
Đồng thời kiến nghị các giải pháp thực tiễn. Hy vọng những giải pháp đó sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và năng suất NCKH ở VN trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Thói quen dựa vào Nhà nước
Về ngân sách nghiên cứu, VN rõ ràng là kém xa so với một số nước trong khu vực. Đầu tư cho KH- CN ở VN năm 2006 là 428 triệu USD, chiếm khoảng 0,17% GDP; năm 2012 tăng lên 653 triệu USD (13.000 tỷ VND), chiếm khoảng 0,27% GDP.
Mặc dù tỉ lệ này cao hơn so với mức độ đầu tư ở Indonesia (0,05% GDP) và Philippines (0,12% GDP), nhưng thấp hơn so với Thái Lan (0,3% GDP, 1,79 tỉ USD), Malaysia (0,5% GDP, 1,54 tỉ USD) và Singapore (2,2% GDP, 3 tỉ USD) (Nguyễn Văn Tuấn & Phạm Thị Ly).
Tính trung bình cứ một triệu USD thì VN công bố được tám công trình khoa học trên các tập san quốc tế. Hiệu suất này tương đương với Thái Lan và Indonesia, có phần cao hơn so với Malaysia và Philippines (6 bài/1 triệu USD), nhưng thấp hơn Singapore nơi có hiệu suất cao nhất với 13 bài báo/1 triệu USD.
Ngân sách Nhà nước dành tới 40% cho đầu tư phát triển nhưng còn sử dụng chưa đúng mục đích, cơ cấu phân bổ giữa trung ương và địa phương còn bất hợp lý (trung ương 43%, địa phương 57%). Nhiều địa phương sử dụng kinh phí dành cho KH- CN chưa đúng mục đích, hiệu quả kém.
Sự phân cấp quản lý nguồn ngân sách đầu tư cho KH- CN hàng năm còn bất hợp lý, phân tán giữa các bộ liên quan.
Song song đó là việc chưa có cơ chế hiệu quả khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho KH-CN, chưa quy định rõ việc trích lập, chi cho hoạt động KH-CN tại các doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp, kể cả trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp đều gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh do thiếu vốn, quy mô nhỏ, đặc biệt do không tìm được đầu ra cho sản phẩm tiêu thụ trên thị trường nên không quan tâm đầu tư cải tiến và đổi mới công nghệ.
Trong khi nhiều nước phát triển trên thế giới, vốn đầu tư của tư nhân luôn chiếm tỷ trọng cao hơn rất nhiều so với nhà nước. Chẳng hạn như Mỹ, vốn đầu tư của tư nhân là trên 63%, Nhật Bản gần 80%, Hàn Quốc trên 75% còn đầu tư cho KH-CN ở VN thì 70% là từ vốn Nhà nước chỉ có 30% là của tư nhân (1).
![]() |
Về ngân sách nghiên cứu, VN rõ ràng là kém xa so với một số nước trong khu vực. Ảnh minh họa, nguồn: SGGP |
GS Nguyễn Đăng Vang ước tính "chỉ tính riêng khu vực doanh nghiệp tư nhân mỗi năm sẽ có 14 tỷ đô la cho phát triển KH-CN. Đây là số tiền rất lớn giúp đổi mới công nghệ một cách mạnh mẽ" nhưng rất tiếc chưa huy động được.
Mặc dù vậy, do "thói quen bao cấp dựa vào Nhà nước đã tồn tại từ lâu" nên việc "Nhà nước thúc đẩy xã hội hóa việc đầu tư cho KH- CN bằng cách tạo điều kiện khuyến khích doanh nghiệp tự đầu tư đổi mới công nghệ từ nhiều nguồn khác nhau trong đó có nguồn vốn từ quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển KH-CN là 10% thu nhập doanh nghiệp" cũng chẳng mang đến hiệu quả cao.
Điều không rõ là 10% thu nhập doanh nghiệp dành cho phát triển KH- CN được thực hiện thế nào theo Luật Khoa học - Công nghệ năm 2000 vì như trên đã đề cập, phần lớn các doanh nghiệp của ta là vừa, nhỏ và siêu nhỏ với thiết bị công nghệ yếu kém nên 10% lợi nhuận trước thuế cũng chẳng có ý nghĩa gì.
Hiện ở VN rất ít doanh nghiệp đầu tư một bộ phận nghiên cứu phát triển, nếu có chỉ là nghiên cứu nhỏ như thay đổi mẫu mã, bao bì, còn nghiên cứu công nghệ cao hầu như không có. Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp nước ta đa phần ở mức trung bình và lạc hậu, khoảng 80%-90% công nghệ nhập ngoại, trong đó 75% máy móc dây chuyền công nghệ thuộc thế hệ những năm 1980-1990, 75% thiết bị đã hết khấu hao, 50% là đồ tân trang" (2)
Đầu tư nghiên cứu cho chi...thường xuyên
Về tình hình kinh phí, Bộ trưởng Bộ KH- CN nhìn nhận: "Nhiều năm qua, trong 2% kinh phí dành cho KH-CN (khoảng 13.000 tỷ đồng) có khoảng 40-43% là kinh phí đầu tư phát triển và Bộ Kế hoach- Đầu tư trực tiếp phân bổ khoản kinh phí này cho các bộ ngành, địa phương".
Điều đặc biệt đáng quan tâm là Bộ KH- CN hoàn toàn không nắm được tình hình phân bổ cũng như hiệu quả sử dụng của khoản kinh phí đó. Các bộ ngành, địa phương khi nhận trực tiếp kinh phí từ Bộ KH- ĐT gần như không báo cáo với Bộ KH-CN".
Song song đó, kinh phí còn lại khoảng 57-60% là dành cho kinh phí sự nghiệp KH-CN, Bộ KH-CN với Bộ Tài chính thỏa thuận thống nhất phương án phân bổ cho các bộ ngành, các địa phương. Nhưng hầu hết khoản tiền này được dành cho chi thường xuyên, tức là nuôi bộ máy cán bộ khoa học cũng như các viện nghiên cứu, các trung tâm nghiên cứu trong cả nước. Một phần rất ít ỏi chiếm khoảng hơn 10% mới dành cho nghiên cứu, tức là các đề tài từ cấp cơ sở đến cấp Nhà nước"(3)
Việc hợp tác hữu hiệu giữa các tổ chức nghiên cứu khác nhau bị hạn chế do mỗi nhóm trực thuộc các bộ chủ quản khác nhau. Thực tế cho thấy cách tổ chức hệ thống nghiên cứu và phát triển (R&D) quốc gia, cách quản lý và cấp ngân sách hiện nay không khuyến khích sự hợp tác giữa các doanh nghiệp, các viện nghiên cứu và các trường ĐH.
Song song đó là chính sách của Nhà nước về việc đầu tư nhiều cho khoa học ứng dụng hơn khoa học cơ bản. Thật vậy, hiện có sự sụt giảm về đầu tư ngân sách Nhà nước về khoa học cơ bản cho các cơ sở nghiên cứu quốc gia. Gần đây nhất là Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 về qui hoạch chiến lược cho việc phát triển KH-CN giai đoạn 2011-2020.
Cần phải xem xét trong tương lai sẽ là làm thế nào sử dụng các nguồn tài trợ một cách có chọn lọc hơn để xây dựng năng lực nghiên cứu theo những tiêu chuẩn quốc tế ở một số ít trường ĐH, nhất là vì nghiên cứu của VN trong tương quan so sánh với nước khác còn khá nghèo nàn. |
Tuy nhiên, trong qui hoạch này không thấy nói đến việc tập trung đầu tư cho khoa học cơ bản mà chỉ có một dòng ngắn đề cập đến việc "nâng cao năng lực của các trường đại học về nghiên cứu cơ bản". Nâng cao bằng cách nào, việc đầu tư ra sao cho các trường ĐH vẫn còn bỏ ngỏ.
Hơn nữa theo báo cáo của Bộ KH-CN về việc thực hiện các đề tài khoa học trọng điểm cấp quốc gia 2001-2005, khoảng 75% ngân sách đầu tư dành cho các đề tài nghiên cứu ứng dụng. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy một quốc gia muốn phát triển mạnh về R&D mà chỉ tập trung nghiên cứu về phần ngọn (ứng dụng) và bỏ qua phần gốc (cơ bản) thường chạy theo đuôi các nước và thiếu tính bền vững.
Kinh phí nghiên cứu được giao cho các Bộ ngành khác nhau không dựa trên những tiêu chí rõ ràng; các quy định về thanh quyết toán không hợp lý và mất nhiều thời gian làm nản lòng người nghiên cứu. Về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ KH-CN nhận xét:
"Cơ chế tài chính cũng như cơ chế quản lý về KH-CN của chúng ta cho đến thời điểm này chưa hội nhập được với thế giới mặc dù chúng ta là thành viên của WTO. Các nước đều làm việc theo nguyên tắc, các nhà khoa học đề xuất nhiệm vụ vào lúc nào sẽ được cấp kinh phí và được tổ chức thực hiện ngay lúc đó, như vậy mới có tính thời sự.
Nhưng chúng ta thường phải lập kế hoạch KH-CN trước hơn một năm. Cho đến khi được giao tiền thì thường các nhiệm vụ KH-CN ấy đã trở nên lạc hậu. Điều quan trọng là Việt Nam đang thúc đẩy nền "kinh tế thị trường nhưng tư duy bao cấp"(4) nên tiềm năng NCKH vẫn chưa được phát huy.
Điều quan ngại là do tất cả vì lợi nhuận nên khá nhiều nghiên cứu không mang tính khoa học và thiếu khách quan, việc lắp ghép và sao chép máy móc các báo cáo là điều không còn cá biệt. Sự kiện báo cáo đánh giá tác động môi trường ở thủy điện Sông Tranh 2 thời gian qua là một minh chứng hùng hồn cho sự yếu kém về NCKH ở VN bởi sự tác động và chi phối rất lớn của các nhóm lợi ích.
Với mức chi 2% tổng chi ngân sách cho KHCN thì VN Nam thuộc nhóm quốc gia có tỉ lệ chi cao, thậm chí cao hơn cả các nước có nền khoa học phát triển. Điều đáng quan tâm là "tiền ít, nhưng khi phân bổ về địa phương thì "gần một nửa bị chi sai mục đích, số còn lại chi dàn trải, hiệu quả không cao"(5)
Nhiều hướng đầu tư
Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) ra đời năm 2008 và gần đây (2011) là Quỹ Đổi mới Công nghệ được thành lập mang đến một luồng gió mới, bổ sung cho cơ chế phân bổ kinh phí hiện hữu nhằm khắc phục các nhược điểm của hệ thống này.
NAFOSTED hỗ trợ các nhà khoa học trẻ, giúp hình thành các tập thể nghiên cứu mạnh có năng lực nghiên cứu ở trình độ quốc tế, gắn kết hoạt động nghiên cứu với doanh nghiệp, đầu tư cho nghiên cứu nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Quỹ này tài trợ nghiên cứu theo những tiêu chuẩn minh bạch và dựa trên cơ chế bình duyệt, phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, kinh phí nghiên cứu được cấp qua quỹ này còn ở quy mô nhỏ và cần được mở rộng, đồng thời cần cải tiến hơn nữa cách thức quản lý và cấp phát kinh phí (sẽ được đề cập ở phần giải pháp).
Dự án Tài trợ nâng cao chất lượng do Ngân hàng Thế giới hỗ trợ (Quality Improvement Grant - QIG) tiến hành năm 2000 đã giúp các trường ĐH xây dựng cơ sở hạ tầng tốt hơn cho giảng dạy, học tập và nghiên cứu. Tuy nhiên, nguồn tài chính này đã được định hướng vào việc mua sách mới (cả bản in và bản điện tử), phần mềm cho thư viện, thiết bị thí nghiệm, trang thiết bị dạy học (chiếm khoảng 85% kinh phí của dự án).
Dự án Tài trợ đổi mới công tác giảng dạy và Nghiên cứu (The Teaching and Research Innovation Grant -TRIG) tiếp nối dựa trên những kết quả của Dự án Tài trợ Nâng cao Chất lượng, và đã phân bổ 60 triệu USD (2008) cho 22 trường ĐH tham gia dự án (dự án kéo dài từ cuối 2008 đến tháng 6/2012).
Nguồn tài trợ này cũng được sử dụng cho việc mua sắm trang thiết bị thí nghiệm, phần mềm dạy học, thiết bị vi tính, trang thiết bị dạy học (50% tổng kinh phí); sách và tạp chí, đào tạo TS và ThS ở nước ngoài, các khóa đào tạo ngắn hạn trong nước, nước ngoài. Và chỉ có 10,74% cho nghiên cứu (6).
Một vấn đề quan trọng cần phải xem xét trong tương lai sẽ là làm thế nào sử dụng các nguồn tài trợ một cách có chọn lọc hơn để xây dựng năng lực nghiên cứu theo những tiêu chuẩn quốc tế ở một số ít trường ĐH, nhất là vì nghiên cứu của VN trong tương quan so sánh với nước khác còn khá nghèo nàn (7).
Đào Văn Khanh, Phạm Thị Ly, Nguyễn Văn Tuấn
--------------------------
1 http://khoahoc.baodatviet.vn/Home/KHCN/ kh24/Tung-buoc-dot-pha-trong-quan-ly-to-chuc-va-hoat-dong-KHCN/201112/183330.datviet
2 Đề án "Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế".
3 http://khoahoc.baodatviet.vn/Home/KHCN/ Khong-nen-lam-khoa-hoc-theo-co-che-ke-hoach-hoa/20129/231532.datviet
4 http://tuoitre.vn//Giao-duc/Khoa-hoc/512776/ Nha-khoa-hoc-cho-tien-tien-cho-nha-khoa-hoc .html
5 http://m.tuoitre.vn/tin-tuc/Giao-duc/Khoa-hoc/ 168473,Nha-khoa-hoc-cho-tien-tien-cho-nha-khoa-hoc.ttm
6 Xem http://hep.edu.vn/test.aspx?id=14
7 Tham khảo thêm phụ lục 3 trong "Qui hoạch tổng thể cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam"