Ngân hàng ít vào nông thôn vì DN còn ít. Khi DN ít, ngân hàng cho vay hộ nhỏ, chi phí giám sát rất lớn. Tình trạng đó luẩn quẩn như chuyện con gà, quả trứng.

>> Mới ra tỉnh đã quên mình "chân quê"?

>> Phú quý giật lùi

LTS: Xung quanh bài toán phát triển nông thôn VN hiện nay, câu chuyện tiếp cận nguồn vốn tín dụng và thu hút DN đang được coi là những rào cản lớn. Tuần Việt Nam ghi lại ý kiến của ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Giám đốc Viện chính sách và Chiến lược phát triển NNNT về hai vấn đề này.

Vay "cầm cự"

Theo số liệu Điều tra tiếp cận nguồn lực hộ nông thôn VN (VARHS) 2006 - 2012, có 50% số hộ nông dân được khảo sát có vay nợ, 60% trong số đó ghi nhận có vay của ngân hàng. Tuy nhiên, quy mô vay rất thấp, chỉ chiếm 13,6% trong tổng lượng vay, nghĩa là rơi vào khoảng 5-10 triệu, còn phần lớn là vay từ tư nhân như bạn bè, người thân...

Khoản tiền vay chính thức từ ngân hàng đó chỉ đủ mua ít giống, phân bón..., còn với chăn nuôi quy mô lớn thì mua giống hoặc thức ăn là không đủ, chưa nói đến tái sản xuất mở rộng, như tăng đàn, áp dụng công nghệ mới... Vay như vậy chẳng qua là vay để cầm cự, chứ không mở rộng sản xuất được.

Nguyên nhân là cơ chế cho vay hiện nay. Ví dụ, về mặt thủ tục, chắc chắn sẽ khó hơn chạy sang vay hàng xóm. Còn phía ngân hàng, cho nhiều hộ gia đình nhỏ vay, giám sát rất khó khăn, chi phí giám sát lớn. Bởi vậy, thường 5-10 triệu thì ngân hàng cho vay, còn số tiền lớn thì phải có thế chấp. Mà thế chấp thì không phải chỗ nào cũng chấp nhận sổ đỏ.

Quy mô vay nhỏ, thời hạn vay ngắn, đặc biệt thời gian vừa rồi lãi suất cao. Tính đi tính lại, người nông dân thấy thà vay nóng hàng xóm, vì họ phải vay những lúc họ cần. Chẳng hạn, họ đang cần tiền cho đám cưới, sửa nhà hay mua lợn giống... mà phải chờ 1 tháng mới xong thủ tục thì "tiêu", lúc đó lợn cũng hết lứa, hết lúc người ta cần rồi.

Trước đây chúng ta có gói kích cầu năm 2009 cho nông thôn, rồi tiếp đó là Nghị định 41 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, khả năng tiếp cận của người dân vẫn còn rất thấp.

Ngoài những vấn đề như quy trình thủ tục vừa nêu, còn những bất cập trong điều kiện cho vay. Chẳng hạn, kích cầu cho nông dân mua máy móc nông nghiệp, nhưng lại kèm thêm điều kiện tỷ lệ nội địa hóa trên 60%. Trong khi ở VN có mấy doanh nghiệp sản xuất máy, mà máy làm ra chất lượng cũng không ổn. Như vậy những quy định kèm theo các khuyến khích vẫn còn bất cập.

Thứ 2, số ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp ít. Mà nguyên tắc của người đi vay là càng nhiều ngân hàng càng dễ tiếp cận, có thể mặc cả, "nhảy" bên này, "nhảy" bên kia, tìm nơi có điều kiện linh hoạt nhất.

Ngân hàng ít vào nông thôn, ít cho vay mặc dù Chính phủ có hỗ trợ là vì DN trong nông thôn còn ít. Nông thôn chưa có đủ môi trường đầu tư hấp dẫn để DN vào. Khi DN ít mà ngân hàng cho vay hộ nhỏ, chi phí giám sát rất lớn. Cho vay một DN lớn chỉ "túm" lấy một ông, giờ "túm" mấy trăm nông dân lấy đâu nhân lực để giám sát? Tình trạng đó cứ luẩn quẩn như chuyện con gà, quả trứng.

{keywords}
Chỉ 13,6% tổng các khoản vay của hộ nông dân là từ tín dụng ngân hàng

Làm sao để DN không "sợ"

Vấn đề mấu chốt là phải làm sao thu hút DN tư nhân về nông thôn. Lúc đó ngân hàng mới thấy thoải mái cho vay và cho vay nông dân sẽ thông qua hệ thống doanh nghiệp, cho vay theo chuỗi, DN và ngân hàng cùng tham gia giám sát.

DN sẽ không giám sát khoản vay bằng sổ đỏ, mà bằng tài sản có thể sinh lợi trên đất của người nông dân. Tín dụng đó mới chạy theo dòng sản phẩm thật, thay vì chạy theo đất không như hiện nay. Tín dụng quy từ giá trị sổ đỏ biến thành tiền cho nông dân sản xuất kinh doanh thì rất khó, và nhiều khi vay xong họ lại sử dụng sai mục đích.

Tuy nhiên DN vẫn chưa vào nông thôn là có nhiều lý do. Thứ nhất là vì ngại. Làm việc với nhiều đầu mối hộ gia đình nhỏ lẻ rất phức tạp, mất thời gian. Thêm nữa đất đai, sản xuất manh mún quá, nên họ ngại khó quản lý hợp đồng cũng như quản lý chất lượng đồng đều. Điều này liên quan đến vấn đề phải thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng đất lớn lên, để DN có thể làm ăn với nông dân chuyên nghiệp thôi.

Thứ 2, phải làm cho DN có cảm giác không sợ rủi ro trên trời rơi xuống. Rủi ro thứ nhất là môi trường cạnh tranh giữa DN tư nhân và DN nhà nước bất bình đẳng. Vẫn còn một loạt nông lâm trường quốc doanh hoạt động rất kém hiệu quả nhưng lại chiếm phần lớn đất.

Rồi cạnh tranh giữa công ty tư nhân với công ty nhà nước. Ví dụ như trong Hiệp hội lương thực VN (VFA), các tổng công ty như Vinafood 1, Vinafood 2 to nhất, giành quyền lúc nào xuất, lúc nào không xuất, mức giá sàn bao nhiêu.

Như vậy môi trường phải bình đẳng để DN tư nhân đỡ "sợ". Và môi trường vĩ mô phải bình ổn, bởi rủi ro sợ nhất là rủi ro chính sách. Chính sách cứ lúc thế này lúc thế kia, lúc thì chặn lúc thì cấm, nào như thịt lợn 8 tiếng, lúc thì bảo trồng lúa lúc không cho...

Phải tính đến những rủi ro đó. Vì kinh doanh trong môi trường nông nghiệp cần dài hạn mới sinh lãi được, không thể "tắc bọp" như kiểu nhảy vào bất động sản, hôm trước hôm sau mua bán trao tay lên gấp 10 lần.

Hết ngại, hết sợ thì phải tạo cho DN cơ hội có lãi. Muốn vậy, phải giảm bớt chi phí giao dịch cho họ, ví dụ cơ sở hạ tầng như đường, điện phải đảm bảo đầy đủ mới kinh doanh được. Nếu đường chỉ đủ để đi chứ xe công-tơ-nơ không vào được, chi phí thuê thương lái rất lớn. Điện cũng phải đảm bảo cho sản xuất chứ không phải mỗi thắp sáng.

Đặc biệt, hệ thống kho chứa thương mại, kho bảo quản, rồi hỗ trợ tín dụng cho chế biến cũng phải được đảm bảo. Phải có hỗ trợ mặt bằng tương đương như thành thị, DN mới dám nhảy vào.

Xử lý được cả 3 tồn tại trên, việc thu hút doanh nghiệp mới khả quan. Phải làm ăn có lãi, DN mới dám tham gia thị trường nông thôn.

Một vài số liệu từ Điều tra tiếp cận nguồn lực hộ nông thôn VN (VARHS) 2006 - 2012

Thu nhập: Nhìn chung tăng lên, nhưng từ 2010 - 2012, thu nhập tăng chậm lại, chỉ còn 6% do suy thoái. Với mục tiêu theo Nghị quyết 26 đến năm 2020, tăng thu nhập của người nông dân lên 2,5 lần thì còn cách xa lắm.

Cơ cấu thu nhập: Thu nhập từ nông nghiệp giảm nhẹ dần, hiện chỉ còn ở mức 30%. Mức chi tiêu có xu hướng tăng lên, nhưng có xu hướng tăng chậm hoặc giảm đối với một số tỉnh miền núi.

Tình trạng nghèo đói: Năm 2012 có giảm so với 2006, từ khoảng 23% xuống còn hơn 14%. Tuy nhiên giai đoạn 2010 - 2012 tỷ lệ nghèo tăng nhẹ.

Sản xuất NN: Quy mô đất trung bình của hộ giảm nhẹ một chút từ 2006 - 2012, giảm từ 8.600 m2/ hộ xuống còn 7.900 m2. Đất phân tán thành nhiều mảnh, trung bình 1 hộ có đến 4,9 mảnh, đất miền núi còn phân tán hơn, có đến 7 - 8 mảnh. Khoảng cách giữa các mảnh đất xa, đến cả 10km, nên công lao động tăng. Quá trình tích tụ tập trung ruộng đất diễn ra khá chậm.

Tỷ lệ hộ mất đất giữa các nhóm thu nhập tương đối ngang bằng, tuy nhiên, các hộ nghèo mất đất thường do bị thu hồi, còn nhóm khá giả thường là do thừa kế cho con cái, cho tặng. Đây cũng là một chỉ báo cho thấy có một số nhóm hộ khá giả hơn dường như đang tìm cách dời bỏ khu vực nông nghiệp.

Thương mại hóa NN: Đầu vào khó khăn chủ yếu do giá cao, thông tin thị trường thiếu, hạ tầng kém.

Tín dụng: 50% số hộ khảo sát có các khoản vay, trong đó khoản vay chính thức từ ngân hàng chỉ chiếm 13,6% trong tổng lượng vay trung bình năm 2012 là 47,6 triệu. Chỉ có 50% số tiền vay được dành cho SXNN, còn lại là cho tiêu dùng, trả nợ hoặc các mục đích khác.

Cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội: Từ 2006 - 2012, tiếp cận hạ tầng nhìn chung được cải thiện, nhưng có sự phân biệt giữa nhóm giàu và nhóm nghèo. Ví dụ khoảng cách đến bệnh viện, UBND xã, nhóm giàu gần hơn, tỷ lệ tiếp cận nước sạch nhóm giàu cũng cao hơn.

(Điều tra được tiến hành với các hộ gia đình nông thôn, bao gồm cả dân tộc thiểu số và người nghèo vùng cao, giai đoạn 2002 - 2012. Năm 2002 điều tra trên 4 tỉnh, từ 2006 tiến hành trên 12 tỉnh).

Mỹ Hòa (thực hiện)