
Xem lại bài 1: Hóa đơn điện tử - con đường chông gai đến minh bạch
Hàng triệu hộ kinh doanh – không phải con số nhỏ
Cặp vợ chồng hộ kinh doanh mà tôi quen biết thuộc 2 triệu hộ kinh doanh cá thể có doanh thu dưới 1 tỷ đồng mỗi năm tương đương 100 triệu đồng/tháng – mà Bộ Tài chính đã đề cập.
Những hộ kinh doanh này hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực bán lẻ, dịch vụ ăn uống, vận tải nhỏ... với quy mô hạn chế và khả năng quản trị còn yếu.
Khi áp dụng hóa đơn điện tử cho 2 triệu hộ kinh doanh từ ngày 1/1/2026, các hộ này cần có kết nối internet và có máy tính, điện thoại thông minh hoặc iPad. Họ phải đăng ký sử dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền với cơ quan thuế và được cơ quan thuế chấp nhận.
Hay nói cách khác, cơ quan thuế sẽ ghi nhận, giám sát toàn bộ các giao dịch đầu vào, đầu ra của hộ gia đình, thay vì để họ “tự khai, tự nộp, tự chịu trách nhiệm” như tinh thần của các luật thuế.
Quy định này rõ ràng là bất cập vì hàng triệu hộ gia đình này có hoàn cảnh khác nhau, ở các vùng phát triển khác nhau. Một chính sách duy nhất áp dụng cho tất cả sẽ không phù hợp với tất cả.
Thu chưa chắc đủ bù chi
Giả định tỷ suất lợi nhuận của nhóm này vào khoảng 15%, thì thu nhập thực tế của họ chỉ ở mức 10–15 triệu đồng mỗi tháng, trong đó đã bao gồm cả chi phí sinh hoạt, chi phí vận hành và khấu hao tài sản.
Theo quy định hiện hành, mức thuế suất VAT và thuế thu nhập cá nhân áp dụng gộp cho hộ kinh doanh là 1,5% trên doanh thu. Điều này có nghĩa là mỗi hộ phải đóng khoảng 1,5 triệu đồng tiền thuế mỗi tháng tương đương 10–15% lợi nhuận.

Vấn đề không chỉ nằm ở mức thuế suất, mà còn ở cơ chế thu và chi phí tuân thủ thuế. Với việc áp dụng công nghệ thuế điện tử và cơ chế kê khai theo phương thức khấu trừ giống như doanh nghiệp, 2 triệu hộ kinh doanh sẽ buộc phải đầu tư vào thiết bị công nghệ, phần mềm hóa đơn điện tử, cũng như học cách thực hiện thủ tục kê khai, nộp thuế định kỳ. Họ thậm chí phải thuê kế toán. Đây là một gánh nặng không nhỏ, đặc biệt với những hộ không có kỹ năng số hoặc không tiếp cận được với dịch vụ hỗ trợ kế toán.
Về phía cơ quan thuế, chi phí tổ chức hệ thống giám sát, quản lý và hỗ trợ kê khai cho 2 triệu hộ cũng sẽ rất lớn. Nếu cộng dồn chi phí tuân thủ và chi phí tổ chức thu – từ cả phía hộ kinh doanh và Nhà nước – thì tổng chi phí này có thể gần tương đương, thậm chí vượt quá tổng lợi nhuận mà toàn bộ khu vực hộ kinh doanh nhỏ này tạo ra. Điều này đặt ra một câu hỏi lớn về tính hiệu quả của chính sách.
Việc mở rộng diện áp dụng thuế điện tử là cần thiết để đảm bảo công bằng và hiện đại hóa hệ thống thuế. Tuy nhiên, chính sách này cần được thiết kế thận trọng, có lộ trình hợp lý, phân loại rủi ro và năng lực của từng nhóm hộ, đồng thời cân nhắc kỹ giữa chi phí thu và số thuế thực tế mang lại.
Nếu không, thay vì tăng thu ngân sách, chính sách có thể dẫn đến tình trạng bỏ kinh doanh hoặc "ngầm hóa" hoạt động kinh tế – đi ngược lại mục tiêu quản lý minh bạch và phát triển khu vực kinh tế cá thể.
Tôi đồng tình với Tiến sĩ Nguyễn Quốc Việt (Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội) khi ông cho rằng cơ quan thuế cũng như chính quyền địa phương cần có sự uyển chuyển trong thực hiện. Nên có thời gian hướng dẫn từ sáu tháng đến một năm để hỗ trợ hộ kinh doanh làm quen, tránh áp đặt và đặc biệt tránh sử dụng hình thức xử phạt quá cứng nhắc.
Phân loại để thu đúng, thu đủ
Hiện nay, hộ kinh doanh tại Việt Nam rất đa dạng, từ người bán hàng rong, chủ quán ăn nhỏ đến các cơ sở sản xuất, bán buôn có doanh thu cả tỷ đồng mỗi năm. Một chính sách thuế đồng loạt, áp dụng cứng nhắc, sẽ hoặc quá nhẹ tay với nhóm lớn, hoặc gây gánh nặng cho nhóm nhỏ.
Các biện pháp quản lý đối với hộ kinh doanh phải có tính cấu trúc, có tính hệ thống và phải bắt đầu từ việc giải quyết gốc của vấn đề đó là địa vị pháp lý của hộ kinh doanh. Từ đó hình thành nền tảng để đưa ra các quy định có tính hệ thống về thuế hay bảo hiểm xã hội áp dụng đối với khu vực hộ kinh doanh. Đồng thời phải sử dụng tốt đa, hiệu quả và thông minh các cơ chế, công cụ thị trường để điều chỉnh hành vi của các hộ kinh doanh.
Việc trước tiên là phải xác định được địa vị pháp lý của hộ kinh doanh. Hệ thống pháp luật cần tách bạch được các thể nhân kinh doanh và pháp nhân kinh doanh. Các hộ kinh doanh cần được gọi là các doanh nghiệp cá thể, doanh nghiệp một chủ (sole proprietorship) và được ứng xử như là các cá nhân kinh doanh trong các quy định về thuế và các quy định khác. Các quy định về thuế áp dụng đối với các hộ kinh doanh mà tốt nhất là nên quy định gọi họ là doanh nghiệp cá thể hay doanh nghiệp một chủ là theo hình thức thuế thu nhập cá nhân.
TS Lê Duy Bình gợi ý cần phân loại hộ kinh doanh thành ba nhóm chính để áp dụng thuế:
Thứ nhất, hộ kinh doanh có doanh thu trên 1 tỷ đồng/năm: Ước tính có khoảng 37.000 hộ thuộc nhóm này. Nhóm này nên được khuyến khích – chứ không bắt buộc chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp: công ty TNHH một thành viên, nhiều thành viên hoặc công ty cổ phần.
Khi đó, họ sẽ tuân thủ chế độ kế toán, kê khai và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp như các doanh nghiệp hiện hành. Việc chuyển đổi này sẽ giúp họ được khấu trừ chi phí đầu vào, minh bạch hóa giao dịch, tiếp cận tín dụng chính thức và các chính sách hỗ trợ từ Nhà nước. Quan trọng hơn, đây là cơ hội để chính thức hóa một phần nền kinh tế chưa được quản lý đầy đủ.
Thứ hai, hộ có doanh thu từ 100 triệu đến dưới 1 tỷ đồng/năm: Đây là nhóm doanh nghiệp cá thể – cá nhân kinh doanh quy mô nhỏ, cần áp dụng thuế thu nhập cá nhân (TNCN) thay vì đánh thuế trên doanh thu như hiện nay. Đặc biệt, nên cho phép họ khấu trừ chi phí kinh doanh hợp lý – một thông lệ đã được áp dụng ở hầu hết các nước phát triển.
Thuế TNCN có thể thiết kế theo lũy tiến, nghĩa là thu nhập càng cao thì thuế suất càng tăng. Điều này sẽ khiến những hộ có doanh thu lớn dần thấy rằng việc chuyển sang mô hình công ty để hưởng ưu đãi thuế TNDN, khấu trừ chi phí là lựa chọn có lợi hơn. Đây chính là cách sử dụng công cụ thị trường để điều chỉnh hành vi, thay vì ép buộc hành chính.
Thứ ba, hộ kinh doanh siêu nhỏ (doanh thu dưới 100 triệu đồng/năm): Nhóm này không cần nộp thuế, nhưng vẫn phải khai báo doanh thu định kỳ – ví dụ mỗi năm một lần – qua một biểu mẫu đơn giản. Việc khai báo giúp cơ quan thuế nắm được quy mô, phục vụ công tác thống kê và quản lý sau này.
Không nên dùng biệt pháp hành chính cần ép buộc
Thay vì sử dụng các biện pháp hành chính cưỡng ép, Nhà nước nên tạo điều kiện để thị trường “đẩy” các hộ kinh doanh lên doanh nghiệp. Ví dụ: chỉ doanh nghiệp mới được tham gia đấu thầu công trình công, ký hợp đồng lớn, được hoàn thuế VAT, tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi, hoặc đủ điều kiện cung ứng dịch vụ ra thị trường quốc tế.
Trong khi đó, cá nhân kinh doanh sẽ gặp hạn chế trong giao dịch với các doanh nghiệp lớn, không được hưởng các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và phải chịu mức thuế lũy tiến nếu thu nhập tăng cao. Những yếu tố này sẽ khiến các hộ tự cân nhắc và chuyển đổi khi có cơ hội kinh doanh tốt.
Các biện pháp hỗ trợ như giảm phí đăng ký, miễn thuế năm đầu, hỗ trợ kế toán số… có thể được triển khai để tăng tính hấp dẫn, nhưng không nên là yếu tố then chốt. Điều quan trọng là tạo ra một hệ sinh thái trong đó “làm doanh nghiệp” là lựa chọn tốt hơn về dài hạn.
Chẳng cần phát minh lại ‘bánh xe’
Mô hình này thực tế không phải điều gì mới. Tại Singapore, doanh nghiệp cá thể chiếm hơn 50% số đăng ký mới hằng năm. Ở Mỹ, con số này là khoảng 40%; ở Pháp, Hungary và nhiều nước EU, tỷ lệ có thể lên tới 70–80%. Họ vẫn thu thuế được, vẫn quản lý được, và khu vực này đóng vai trò quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm, khởi nghiệp và tăng trưởng bền vững.
Việt Nam không cần phát minh mô hình thuế mới, mà nên học hỏi những gì đã vận hành hiệu quả từ các quốc gia phát triển. Vấn đề không nằm ở việc thiếu công cụ, mà là chúng ta sử dụng công cụ sẵn có như thế nào và bắt đầu từ đâu.
Nếu muốn xây dựng một hệ thống thuế công bằng, hiện đại và hiệu quả, điều đầu tiên cần làm là xác định lại bản chất hộ kinh doanh: ai là cá nhân kinh doanh, ai nên là doanh nghiệp. Sau đó, sử dụng các công cụ thị trường – không phải mệnh lệnh hành chính để điều chỉnh hành vi, định hướng chuyển đổi. Việc này không chỉ cải thiện hiệu quả thu thuế mà còn góp phần minh bạch hóa và nâng cấp năng lực kinh doanh của hàng triệu người dân Việt Nam.
Tất nhiên, muốn hộ, cá nhân kinh doanh vươn lên thành doanh nghiệp cần có sự hỗ trợ đủ lớn từ phía Nhà nước. Theo đó, mọi thứ phải đơn giản; phần mềm kê khai thuế, in hóa đơn điện tử phải dễ thực hiện.
Đặc biệt, quy trình thủ tục, sổ sách kế toán, cách thức quản lý phải phù hợp với năng lực, trình độ, kỹ năng của từng nhóm đối tượng kinh doanh khác nhau. Từ đó giảm chi phí tuân thủ xuống dưới mức lợi ích họ có thể đạt được.
Một chính sách ban hành bao giờ cũng có tác dụng thuận và nghịch. Tác dụng thuận là chủ đạo thì người dân và Nhà nước được hưởng lợi, và ngược lại.
Chính sách thuế điện tử, nếu không được tính toán cẩn thận hơn, sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển của cả khu vực này – và tới sinh kế, cuộc sống của hàng triệu người dân.


