>> Sau 24 năm cường quốc, Việt Nam có gì
Nông nghiệp bí chỗ nào?
Thưa ông, đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp đã chỉ ra những định hướng phát
triển khá chi tiết. Tuy nhiên, về mặt tổng thể, chiến lược dài hơi cho nông
nghiệp Việt Nam có vẻ vẫn khiến nhiều người băn khoăn?
Về cơ bản, phải khẳng định cả bốn ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và
thủy sản mấy năm nay đều chững lại. Theo tôi có mấy căn nguyên cơ bản dẫn tới
tình trạng này.
|
Ông Nguyễn Công Tạn |
Thứ nhất là thị trường, mà tiêu biểu là vấn đề lúa gạo. Lâu nay chúng ta đặt vấn
đề an ninh lương thực, thực tế xét phạm vi cả thế giới thì nhu cầu tiêu thụ gạo
những năm qua có tăng, nhưng xét về cá thể, đặc biệt ngoài khu vực nghèo đói thì
ngày càng giảm.
Nhu cầu gạo con người ngày càng ăn ít đi, chứ không thể mãi gia tăng. Dân Thái
Lan bây giờ chỉ tiêu thụ tầm 100kg gạo/người/năm, Việt Nam rồi cũng sẽ tới mức
đó. Như thế nếu quy ra dân số VN tương lai khoảng 100 triệu dân, cũng chỉ cần
tầm 10 triệu tấn gạo, cứ cho tương đương 20 triệu tấn thóc là đủ.
Trong khi đó, nước NK gạo nhiều rồi sẽ tự túc dần, còn các nước đói thì không có
tiền mà mua gạo. Tóm lại, nếu không thay đổi thì kiểu gì chúng ta vẫn trở về
cảnh thừa gạo.
Thứ hai, SX chúng ta chững lại do nhiều nguồn lực, trong đó chủ yếu nguồn lực
đất đai đã cạn. Cao su chỉ phát triển chừng ấy diện tích là hết, rồi cũng phải
qua Lào, Campuchia... thuê đất trồng. Cà phê đến nay 600 nghìn ha, cũng đã hết
chỗ, còn đất đâu nữa mà trồng?
Rồi cây điều, tiêu, chè... cũng cơ bản hết tiềm lực đất đai, rồi sẽ đi xuống.
Trong khi đó, nhiều diện tích cây trồng sau năm 1975 đến nay đã hết chu kỳ khai
thác, việc tái canh chiến lược vẫn không đầy đủ...
Thứ ba, KHKT là căn cứ đầu tiên để hoạch định chính sách và chiến lược phát
triển, nhưng KHKT nông nghiệp chúng ta quá yếu, không bắt kịp và đón đầu được sự
phát triển của nền nông nghiệp trước những thử thách. Chúng ta rối và thiếu định
hướng phần lớn là do không có khoa học định hướng trước.
Tiềm lực tự nhiên cho nông nghiệp ở VN là “tam sơn, tứ hải, nhất phần điền”.
Trong đó “nhất phần điền” như ĐBSH, ĐBSCL, Tây Nguyên làm cái gì cũng dễ thì bây
giờ đã khai thác hết. Chúng ta buộc phải phát triển tới “tam sơn, tứ hải”, nhưng
do khoa học không định hướng được nên còn hạn chế.
“Tam sơn” của chúng ta (trừ Tây Nguyên), còn mười mấy triệu ha, chiếm trên 20%
dân số khắp Bắc tới Nam Trung bộ, đến nay đều bí về phương hướng. Lúc nào Đảng,
Nhà nước cũng phải đặt câu hỏi trồng cây gì, nuôi con gì hiệu quả? Trong những
khuyết tật về khoa học nông nghiệp của VN thì khuyết tật lớn nhất đang nằm ở
miền núi.
Tôi khẳng định, SXNN chúng ta trì trệ trong mấy năm gần đây là lỗi chính do khoa
học, chứ không phải do đầu tư. Khoa học nói cái gì hiệu quả, chẳng cần tới Nhà
nước, dân họ đầu tư ngay.
Khó từ tư duy
Ông đề cập tới xu hướng tất
yếu “kiểu gì rồi cũng thừa gạo”. Vậy việc khó khăn trong XK gạo hiện nay, có
phải do việc dự báo xu hướng sản xuất và tiêu dùng lúa gạo thế giới chúng ta
kém?
Thực ra việc dự báo chúng ta có làm, nhu cầu lúa gạo thế giới ra sao chúng ta
biết rõ chứ không phải không biết. Nhưng cái cốt lõi khiến đến nay ta phải gặp
cảnh khó khăn ấy chủ yếu là do tư duy.
![]() |
|
Lâu nay chúng ta đặt vấn đề an ninh lương thực giống như một lá bùa, khiến người
ta không thể, hoặc không dám suy nghĩ khác đi, không dám thay đổi. Ngay cả vấn
đề an ninh lương thực, tôi nghĩ chúng ta cũng đã hiểu sai, hiểu hẹp.
Thế giới họ hiểu là Food Security phải là an ninh lương thực – thực phẩm, nghĩa
là phải có cả trứng, sữa, khoai, đường, hoa quả nữa..., chứ đâu chỉ có lương
thực, đâu chỉ có an ninh lương thực là gạo?
Thành thử lúa gạo VN lâu nay chịu tất cả sức ép đè lên nó, khiến những nhà lãnh
đạo không dám thay đổi. Chúng ta bị trói vào tư duy ấy quá lâu, chứ không phải
chúng ta không biết dự báo xu hướng tiêu dùng lúa gạo.
Bộ NN-PTNT đang lấy ý kiến các địa phương về việc chuyển đổi một phần diện
tích đất lúa kém hiệu quả sang cây trồng khác có giá trị hơn, trong đó chú trọng
vào cây nguyên liệu thức ăn chăn nuôi như ngô, đậu tương... Quan điểm của ông về
định hướng này thế nào?
Phải khẳng định tiềm lực SX lúa gạo chúng ta còn lớn. Tuy nhiên, nông dân lại
không muốn làm, căn bản do thu nhập quá thấp. Lúa năng suất có cao tới 10 – 12
tấn/ha đi chăng thì cũng chỉ có 50 – 60 triệu đồng/ha, mà toàn là đất bờ xôi
ruộng mật chứ không phải là xấu.
Công bằng mà nói là không xứng đáng với công sức của dân, trong hoàn cảnh mặt
bằng giá mọi thứ đã quá cao như hiện nay.
Về diện tích lúa, theo tôi tương lai chỉ cần giữ để đạt 20 triệu tấn lúa là quá
đủ cho an ninh lương thực rồi. Còn lại tùy vào các địa phương mà chuyển đổi linh
hoạt, có thể là ngô, đậu tương, chăn nuôi hay thủy sản...
Hoặc vẫn có thể giữ lúa ở những vùng có lợi thế, nhưng nếu giữ thì phải có chiến
lược phục vụ chuyển sang chế biến TĂCN. Lúa Q5 ở phía Bắc, IR50404 ở ĐBSCL hoàn
toàn có thể giữ lại để làm nguyên liệu cho TĂCN.
Nhưng làm thế thì cơ cấu ngành chăn nuôi lại phải thay đổi theo để phù hợp.
Chẳng hạn chúng ta có vịt, gà... hoàn toàn có thể sử dụng lúa, tại sao không sử
dụng?
Để có nền nông nghiệp 100 tỷ USD
Xin ông cho biết một số quan
điểm về việc cơ cấu, sắp xếp lại một số lĩnh vực SXNN chủ chốt trong giai đoạn
tới?
Trước hết, phải xem thu nhập của nông dân là sự bền vững quan trọng và nhân văn
nhất. Còn KHCN và hoàn thiện chuỗi giá trị từ SX tới chế biến phải được coi là
sản nghiệp của ngành nông nghiệp.
Hiện nay, GDP nông nghiệp chúng ta đang xoay quanh con số 20 tỉ USD, mục tiêu
chúng ta phải là 100 tỷ USD. Muốn có được con số đó, phải dựa vào KHCN, mà khâu
chế biến để hoàn thành chuỗi giá trị cho SXNN là mấu chốt. Ở các lĩnh vực SXNN
cụ thể, tôi cho rằng có mấy hướng:
Về chăn nuôi, lợn và gia cầm lấy thịt hiện chúng ta đã bão hòa, tình cảnh chẳng
khác gì SX lúa (số lượng vào loại lớn nhất khu vực, nhưng khả năng cạnh tranh
kém)
Vì thế, chăn nuôi chỉ có hướng vào gia cầm lấy trứng. Bên cạnh đó, bò sữa trước
đây ta tưởng là không làm được, nhưng bằng chứng là làm được rất tốt. Nếu chúng
ta nâng lên được 1 triệu con bò sữa thì sẽ tạo được đột phá khủng khiếp trong
nông nghiệp.
Về thủy sản, cần phải chú ý đến thủy sản nước ngọt. Nói ngay như hồ Hòa Bình,
lưu vực nước ngọt ước dăm vạn ha, có thể là vựa thủy sản lắm chứ!
Về lâm nghiệp, cần thay đổi tư duy quản lí lẫn chiến lược khoa học, đổi dần tư
duy sinh thái sang tư duy thương mại. Dân không thể dựa vào mấy trăm nghìn
đồng/ha để giữ rừng, mà phải có thương mại, có tiền mới có thể quay lại giữ
rừng.
Sinh khối nông nghiệp tương lai sẽ giải quyết cả vấn đề năng lượng cho con
người, mà nguyên liệu gỗ sẽ là át chủ bài để giải quyết nhu cầu năng lượng sinh
học. Mỗi năm, nếu chúng ta giải quyết được công nghệ, chỉ riêng tận dụng sinh
khối chất thải nông nghiệp, đầu tư chỉ cần 15 tỉ USD thì sẽ thu về 50 tỉ USD.
Ngoài phụ phẩm, sẽ phải bổ sung sinh khối rừng bằng cây cao sản, thậm chí lấy
đất lúa trồng cây gỗ, điều này một số nước họ cũng đã làm như thế, chúng ta làm
được thì hoàn toàn có thể nâng lên 100 tỉ USD/năm nhờ năng lượng sinh học.
Có thể đây sẽ là một hướng mở ra bình minh cho nền nông nghiệp VN sau năm 2020.
“Nói thật, đừng có lo rằng dân họ sẽ bỏ hết lúa để chuyển sang làm thứ khác! Có
chỗ họ có thể bỏ lúa trồng cây khác, nhưng có chỗ, vụ đông thì may ra mới chuyển
được, chứ vụ xuân, vụ hè, vụ mùa nước ngập, trồng màu không được, nuôi thủy sản
cũng đâu có dễ. Thế nên phần lớn đất lúa hiện nay, trồng lúa vẫn là thích hợp
nhất, dân vẫn sẽ trồng lúa chứ lo gì chuyện không giữ được diện tích lúa? |
-
Theo Lê Bền (Nông nghiệp Việt Nam)