- Thiết nghĩ, trước khi "có" chính quyền đô thị thì cần phải "có" đầu óc về quản lí theo kiểu 'đô thị'.

Việc Quốc hội mới đây chấp thuận đề nghị của thành phố Hồ Chí Minh về sự cần thiết phải xây dựng đề án thí điểm về mô hình chính quyền đô thị (CQĐT) là một quyết định hết sức kịp thời và đúng đắn.

Quyết định đó tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế cho một thành phố có qui mô, tính chất phát triển lớn nhất nước một "cơ hội" để phát triển, mở rộng đô thị, đổi mới phương thức quản lí đô thị theo kiểu hiện đại, thúc đẩy sự phát triển trên nhiều bình diện phù hợp với tình hình mới của thời cuộc.

Có thể nói, động thái này của QH đóng vai trò như một "bà đỡ" để cho ra đời một một mô thức mới quản lí Nhà nước về đô thị.

Chiếc áo đã cũ kĩ và chật chội?

Thực ra, khái niệm CQĐT không có gì mới đối với nhiều nước, nhiều đô thị trên thế giới, bởi ngay từ nửa đầu của thế kỉ 17, các quốc gia như Anh, Mỹ đã tiến hành xây dựng mô thức CQĐT với kiểu quản lí mới mà lúc đó gọi là Hội đồng thị xã (Town Meting).

Thế nhưng, đứng ở giác độ quản lí xã hội mà nói, sự ra đời của một thể chế quản lí (hay một phương thức quản lí mới) không phải chỉ dựa vào ý chí chủ quan của một vài cá nhân nào đó. Mà nó là kết quả của một quá trình phát triển khách quan từ nhu cầu nội tại và đòi hỏi từ thực tiễn của chính đô thị đó, quốc gia đó.

Ngay cả khi đã "hình thành" thể chế quản lí theo kiểu CQĐT rồi thì bản thân nó cũng không phải "đứng im" mà luôn "vận động" theo những nhu cầu nội tại của sự phát triển. Lấy Mỹ làm ví dụ:

Từ khi thiết lập CQĐT đến nay, họ cũng đã thay đổi nhiều mô thức để thích ứng và phù hợp với nhu cầu quản lí mới về đô thị mà ít nhất đến nay họ cũng đã kinh qua (và tồn tại) mấy loại mô thức CQĐT, như chế độ thị trưởng yếu (The Weak - Mayor Plan); chế độ thị trưởng mạnh (The Strong - Mayor Plan); chế độ Ủy ban- Ban chấp hành (The Conmission Plan); chế độ Hội đồng - Quản lí (The Council - Manager Plan).

Như vậy, về bản chất mà nói, không phải muốn có hay không có (theo ý chí chủ quan của một cá nhân hay một số người nào đó) cái gọi là CQĐT gắn với chế độ "thị trưởng". Mà phải thấy rằng, sự phát triển xã hội nói chung, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa cũng như mức sống và nhất là đời sống dân trí của thị dân được nâng lên nói riêng, là những lực đẩy nội tại "cần phải thay áo mới" cho một cơ thể xã hội- đô thị đang trương đầy cơ bắp.

Chính chiếc áo cũ ấy không thể đáp ứng được nhu cầu hiện hữu mới thực sự là nhu cầu đích thực cho một kiểu quản lí xã hội đô thị- CQĐT. Hơn nữa, CQĐT ra đời còn cần phải sự đòi hỏi khách quan mà trước hết có thể nói đến là sự giao lưu, giao thương quốc tế theo kiểu thành phố - thành phố (sự tương tác song hành trực tiếp giữa hai thành phố nào đó).

Điều đó, đòi hỏi cần phải có sự "thống nhất tương đối" về vị trí, địa vị và phương thức quản lí theo kiểu đối trọng. Kế đến và tiên quyết là sự "đòi hỏi" của chính người dân trong đô thị đó. Khi đời sống dân trí được nâng cao đến một mức độ nào đó, bản thân thị dân (một chủ thể trọng yếu của đô thị) muốn được thể hiện vai trò, vị trí của mình trong tiến trình xây dựng, quản lí, giám sát, bảo vệ, phát triển chính đô thị họ đang sống.

{keywords}
Thành phố HCM. Nguồn ảnh:Tác phẩm Đại lộ Võ Văn Kiệt, Tác giả Phạm Xuân Vinh, đoạt giải cuộc thi "Thành phố của tôi"

Đến lúc đó, họ đòi hỏi phải có một hình thức quản lí đô thị mới (có thể là chế độ thị trưởng hoặc một kiểu quản lí nào đó) để người dân thể hiện được quyền lợi và nghĩa vụ, vai trò và vị trí, tình cảm và năng lực của mình đối với thành phố mà họ đã và đang sống.

Kế đến, một yếu tố không kém phần quan trọng để "khai sinh" ra chính quyền đô thị là cần phải có sự nhìn nhận, cho phép và "thúc ép" từ chính quyền Nhà nước về "tính cần thiết" của "chiếc áo mới" là cấp bách hay không?

Bởi xét đến cùng mục đích tối thượng và xuyên suốt của một chính quyền thành phố, dù ở bất cứ hình thức nào, tên gọi nào, phương thức vận hành nào, thì mục đích của nó cũng để quản lí xã hội - đô thị tốt hơn về các mặt văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại giao, an ninh, quốc phòng, tôn giáo tín ngưỡng...

Như vậy, có thể nói, sự ra đời (và cho phép ra đời) của chế độ quản lí "thị trưởng" không phải là từ ý chí cá nhân đơn lẻ nào đó, mà nó cần hội đủ những điều kiện tiên quyết từ nhu cầu nội tại ngay trong lòng của đô thị đó với những chủ thể hiện hữu của nó và đòi hỏi từ những sức kéo bên ngoài.

Nó không phải là "sản phẩm" sản sinh từ tâm lí "họ có mình có", càng không phải "cầm đèn chạy trước ô tô". Nên nhớ một sản phẩm sinh ra không "hợp thời" không những không mang lại những lợi ích mà đôi khi còn làm tổn thất đến nhân lực, vật lực, tài lực cho xã hội nếu không muốn nói là kéo lùi sự phát triển.

Chiếc áo mới phải như thế nào?

Bất cứ hình thức tổ chức quản lí xã hội đô thị theo kiểu nào thì cũng không ngoài lợi ích chính đáng, hợp pháp của đại bộ phận thị dân mà cụ thể là phát huy tối đa quyền lực giám sát của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhân dân khi tiếp xúc với chính quyền theo nguyên tắc "dĩ nhân vi bản". Đặc biệt là hiệu suất quản lí và sự hài lòng của người dân là thước đo để kiểm chứng hiệu quả cũng là "chuẩn mực" cho chính đội ngũ quản lí đô thị.

Chính lẽ đó có thể khẳng định rằng, xây dựng CQĐT trước tiên là phải có óc quản lí đô thị theo tư duy mới, vì nhân dân phục vụ.

Khi nào mà sự quan liêu, bao cấp, bao biện, óc tiểu nông, bè cánh, vụ lợi....của chúng ta vẫn còn hiện hữu và "còn đất sống", nhận thức và cách điều hành của người đứng đầu đô thị còn mang tư duy "vừa chạy vừa xếp hàng", "nóng đâu phủi đó", thiếu hẳn tầm chiến lược trong công tác qui hoạch, xây dựng, quản lí (quản lí không gian vật chất và quản lí cả không gian xã hội) khiến cho đô thị của chúng ta phát triển một cách lộn xộn, mất trật tự, không theo một chiều tích định hướng nhất định, thì việc xây dựng (và chấp nhận) kiểu quản lí đô thị đó, sẽ khó lòng đạt được những mục tiêu cao nhất, nếu không muốn nói là "tác dụng ngược".

Do đó, việc chấp nhận và cho phép xây dựng một mô thức quản lí CQĐT cần phải có những điều kiện hết sức khắc khe, những nguyên tắc ràng buộc và kể cả những bước đi, lộ trình rõ ràng, khả thi, khoa học, phù hợp với thực tiễn của mỗi đô thị, mỗi quốc gia.

Nói cách khác, "chiếc áo mới" phải phải phù hợp với cơ thể xã hội đô thị về cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, điều kiện về tâm lí lối sống, phong tục tập quán và kể cả những thói quen cố hữu và những nét văn hóa mà đô thị đó đang dung nạp. Hơn nữa, "chiếc áo mới" ấy còn phải phù hợp với sự thống nhất lãnh đạo chung của Đảng, sự quản lí của Nhà nước.

"Áo gấm đi đêm" hay "áo mặc quá đầu"?

Nói đến CQĐT không thể không nói đến vai trò hết sức quan trọng của "người đứng đầu thành phố": Thị trưởng. Mô thức vận hành kiểu CQĐT quyết định đến quyền hạn, vai trò, vị thế của thị trưởng và ngược lại tư duy, nhận thức, cách điều hành, tài năng và cả đạo đức của thị trưởng tác động vô cùng lớn đến sự phát triển cũng như vận mệnh của đô thị đó.

Chính lẽ đó, người đứng đầu thành phố là người cần phải có kiến thức về quản lí đô thị kiểu mới. Khi đã là thị trưởng thì kiến thức và tầm nhìn về quản lí đô thị càng phải được đặt lên hành đầu trong tiêu chí lựa chọn. Thực tế nước ta cho thấy, kiến thức về đô thị nói chung, về quản lí đô thị nói riêng của một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo quản lí (kể cả liên quan đến công tác quản lí đô thị hiện tại) còn sơ sài.

Chính sự yếu kém về nhận thức dẫn đến sự yếu kém trong công tác chỉ đạo, ra quyết định và điều hành. Điều này được kiểm chứng ngay trong các đô thị ở nước ta trên các lĩnh vực qui hoạch đô thị, xây dựng đô thị và quản lí công đô thị trong thời gian qua.

Sự thiếu thống nhất trong công tác qui hoạch, sự thiếu đồng bộ và quyết đoán trong công tác xây dựng, kiến thiết, quản lí, vận hành đô thị; sự nhập nhằng và thiếu quyết đoán trong công tác quản lí đô thị trong thời gian qua đã cho thấy năng lực về nhận thức và thực hành quản lí đô thị của cán bộ lãnh đạo, quản lí hữu quan còn hết sức đơn giản, ấu trĩ.

Thiết nghĩ, trước khi "có" chính quyền đô thị thì cần phải "có" đầu óc về quản lí theo kiển CQĐT. Bởi xét đến cùng, thể chế quản lí CQĐT là một bộ phận cấu thành trọng yếu trong kiến trúc thượng tầng xã hội đô thị. Sự chấp thuận và cho phép TP HCM xây dựng đề án và tiến hành thí điểm vận hành CQĐT là một chiếc "áo gấm" về cơ chế.

Thế nhưng không biết vận dụng và tận dụng cơ hội hiếm có này để tạo cú hích mới cho phát triển kinh tế xã hội cũng như phương thức quản lí mới thì chẳng khác nào "áo gấm đi đêm". Tiếp nữa, là thị trưởng thì phải biết lắng nghe, biết tập hợp sức mạnh khoa học kĩ thuật từ những nhà chuyên môn về đô thị, về quản lí hành chính, quản lí công, quản lí thị chính.

Để từ đó mà xây dựng được những mối quan hệ từ các cơ cấu (mới và phức tạp) trong thiết chế thị trưởng (mối quan hệ giữa cơ cấu tư pháp, cơ cấu hành chính, cơ cấu các cơ quan đại diện của thành phố; mối quan hệ giữa các đoàn thể xã hội, tổ chức chính đảng và cơ cấu Nhà nước).

Bởi khi đã hình thành CQĐT gắn với chế độ thị trưởng, thì không những "chấp nhận tên gọi" mà còn là sự chấp nhận, và thay đổi hoàn loạt cách nghĩ, cách làm. Các mối quan hệ từ các chủ thể lợi ích mới; các thiết chế mới của đô thị và đặc biệt là tư duy quản lí mới và không thể rơi vào tình trạng "mặc áo quá đầu" trong quản lí theo kiểu mệnh lệnh, hành chính, bảo thủ, độc đoán...

TS. Phạm Đi

(Học viện Chính trị- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh)