Có lẽ, cố thi sỹ Quang Dũng cũng không thể ngờ rằng cái mùi thơm xôi nếp ngày xưa của mảnh đất Mai Châu trong thơ ông lại có ngày bị mai một...

Lúa nương xa tầm mắt

Mai Châu nằm "gọn gàng" trong một thung lũng hẹp. Với du khách, cái địa danh ấy gợi nhắc một bản người Thái làm du lịch hay một "địa chỉ bỏ túi" cho những người xê dịch tọ cảm hứng sáng tác ảnh nhiều hơn là "quê hương" của một loài lúa nổi tiếng ngàn năm. Truyền rằng, cái giống lúa một năm chỉ có một mùa ấy, ăn đất Tây Bắc, uống nước nguồn miền Tây, thai nghén trong gần 200 ngày trời mới cho thu hoạch.

Tiếng Thái gọi là "kháu càng nòi" - nghĩa là gạo dẻo thơm. Cây lúa cao, bông nhỏ, đi vào trong ruộng lúa chỉ thấy nhấp nhô mỗi chỏm tóc vì cây lúa cao quá. Hạt thóc nhỏ, tròn, hương thơm ngào ngạt, một sào chỉ cho 5-6 gánh lúa, tính năng suất theo kiểu bà con vùng đồng bằng thì quá "mất mùa": 70-80kg/sào. Cây lúa ngắn bông, hạt nhẹ, không đặc ruột cũng chỉ vì thiếu nước quá.

Lúa thu về để nguyên cả bó, treo trên gác bếp, ăn đến đâu mới tuốt đến đó. Hạt gạo mới vẫn sóng sánh nhựa, quyện bó vào nhau, đồ trong chõ bằng bếp củi, nấu từ sáng, chiều ăn mà vẫn vẹn nguyên độ dẻo chứ không khô, mở chõ xôi, hương thơm tỏa đến tận cuối bản.

Xôi ấy ăn không hoặc có nước chấm do người bản địa làm theo phương thức "gia truyền", ắt hơn hẳn những cao lương, mĩ vị trong cung cấm của các bậc đế vương. Thế nên, trong những bài thơ viết về Tây Bắc, cái hương nếp nương ấy nó cứ ấp ủ trong câu chữ, từ những người lính Tây Tiến thời tiền cách mạng cho đến cả cái thời thi sỹ họ Chế khát khao đến miền Tây bằng một chuyến tàu ước vọng!

Ông Vi Văn Lâm ngồi tiếp chúng tôi trong ngôi nhà sàn rộng thênh thang. Trong câu chuyện, ông nói về hương nếp Mai Châu như một huyền thoại, một câu chuyện đã ngủ vùi trong tâm thức. Rằng, cái gióng lúa ấy là tặng vật của trời dành cho người Thái, mà dấu ấn quan trọng nhất ấy là dòng sông Mã.

Con sông chảy từ tỉnh Điện Biên, đến phía Tây tỉnh Sơn La thì quặt sang đất Lào, độc hành qua bao núi non, vực sâu lại quay trở lại, xuôi về biển ở miền Tây Thanh Hoá. Đoạn sông ấy đã góp một phần nước của mình để làm nên cái dẻo thơm của gạo nếp nương Mai Châu.

Cánh đồng bản Lác

Bỏ lúa trồng... rừng!

Con đường 6 độc đạo lên xứ sở Tây Bắc, từ khi được nâng cấp đã xẻ quả núi chềnh ềnh làm đôi, làm giản đi cái độ nghiêng của dốc Cun án ngữ bao đời. Đoạn đường cũ giờ đã thành "phế đạo", vắt hờ trên sườn núi và là nơi lý tưởng cho bọn trẻ thả trâu chơi trận giả hay những "cua-rơ" xe đạp tạt vào để nghỉ ngơi trước lúc tiếp tục cuộc thả dốc.

Tuyến đường liên huyện vào Mai Châu đang trong giai đoạn mở rộng, nó ngổn ngang những đá hộc, những ổ trâu ổ gà... Nó dẫn vào "bản doanh" của những bản làng người Thái, với những địa danh đọc lên đã đầy thơ, đầy nhạc: bản Lác, bản Nhót... và là quê hương của thứ gạo nương huyền thoại.

Bản Co Luông (xã Vạn Mai-Mai Châu) bây giờ đã trở thành con đường "lương vận" từ đường sông lên đường bộ cho các thứ gạo "nhập khẩu" để người Thái làm cơm lam đãi khách miền xuôi.

Cái chuyện "ngược đời" đến lạ lùng, ấy là "cái nôi" của nếp nương, cơm lam Mai Châu bây giờ đã phải "ăn hàng" từ vùng Quan Hóa, Ba Thước (Thanh Hóa) đã trở thành thói quen của những người bản địa. Ngay cả những ống mai, ống vầu được cắt đốt để làm cơm lam cũng phải mua lại từ những người đi rừng.

Hàng ngày, các bà, các mế lỉnh kỉnh với mủng, mẹt, với bị cói cơm lam, muối vừng ngồi chờ khách. Một ống cơm lam, khách trả 2-3 ngàn đồng, coi như mộ thứ "cây vườn" nhà làm được. Chẳng có lỗi của ai, đó chỉ là kết quả của quá trình "phân công lao động" rất rạch ròi khi mà bản làng còn mải mê tập trung làm du lịch!

Ngôi nhà của ông Lâm bây giờ cũng được đánh số, đeo biển như phố. Đó là dấu hiệu đặc trưng của những hộ đăng ký làm du lịch, phục vụ nhà nghỉ cho khách tham quan. Làm du lịch nhưng cái dịch vụ cũng còn thô sơ lắm.

Khách muốn ăn cơm trưa phải đặt trước. Vợ con ông mới căn cứ trên cái "me-niu" ấy mà ra chợ sắm đồ, rồi hì hụi bắc bếp củi nấu nấu, nướng nướng. Khách đến thăm quan, chỉ chăm chắm tìm hiểu kiểu kiến trúc "lạ mắt" của nhà sàn người Thái, chăm chắm vào những món hàng thổ cẩm hay nếm một ống cơm lam... mà chẳng hề biết, đấy chính là quê gốc của một loại nông sản được liệt vào hàng đặc sản.

Từ năm 1964, bản Lác "bắt tay" vào ngành công nghiệp không khói. Du lịch đã làm cho bộ mặt bản Lác thay đổi tong ngày. Điều ấy được ghi nhận ở cột chỉ tiêu "năm sau cao hơn năm trước" trên chiếc bảng báo cáo tình hình kinh tế địa phương treo trong nhà ông Lâm.

Thời điểm hiện tại, diện tích canh tác của Chiềng Châu là 33,9ha, chia theo 442 khẩu toàn xã thì tỷ lệ đất nông nghiệp theo đầu người cũng nhấp nhỉnh bằng... tỉnh đồng bằng đất chật người đông! Chỉ tiếc rằng, theo mùi xôi nếp xưa, sẽ có nhiều nét văn hóa bị mai một dần, khi mà thấp thoáng bên cột nhà sàn đã có những dòng quảng cáo nho nhỏ "For rent house", dù rất khiêm tốn thôi cũng độc chiếm một không gian riêng biệt.

Và đến một ngày, xôi nếp chỉ còn thơm trong thơ?

Di Linh