Không nên đặt nông nghiệp và công nghiệp lên bàn cân để xem chúng ta lập thành tích giảm tỉ trọng nông nghiệp được đến đâu mà phải đặt ra bài toán công nghiệp hóa nông nghiệp thế nào cho hiệu quả.

Với lịch sử ngót ba thế kỷ, xuất phát từ các nước Tây Âu, công nghiệp hoá vẫn luôn được xem là một bước quan trong tiến trình phát triển kinh tế. Ở Việt Nam, từ những năm 1960, định hướng "công nghiệp hoá, hiện đại hoá" được coi là trọng tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH.

Mới chỉ nằm trên các... luận văn khoa học

"Công nghiệp hóa, hiện đại hóa" đã trở thành một khẩu hiệu được mặc định là đúng đắn, không cần bàn cãi hay xem xét. Công nghiệp hóa được xem như con đường duy nhất dẫn tới hiện đại và phát triển. Người ta gắn liền công nghiệp với sự giàu mạnh, tân tiến. Trong khi đó, nông nghiệp luôn đi kèm với sự nghèo nàn và lạc hậu.

Chính vì thế, đã bao năm nay từ trung ương tới địa phương, ở đâu cũng chỉ thấy vô số chính sách thu hút đầu tư vào công nghiệp, dịch vụ. Trong khi đó, thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp là một vấn đề còn khá mới mẻ ở Việt Nam, hay nói đúng hơn mới chỉ nằm trên các... luận văn khoa học.

Thế nhưng, nghiêm túc nhìn lại, chúng ta phải thừa nhận một thực tế đáng quan ngại là hiệu quả của quá trình công nghiệp hóa được đẩy mạnh một cách ồ ạt tại nước ta trong mấy chục năm qua chưa được như mong đợi.

Sau năm 1975, do quá chú trọng công nghiệp nặng, nền kinh tế trở nên thiếu cân đối. Cùng với những chính sách ấu trĩ về thương mại, việc không quan tâm đúng mức tới chính sách nông nghiệp đã khiến cho những vùng chưa bao giờ biết tới nạn đói, như cũng phải điêu đứng vì thiếu lương thực trong những năm trước đổi mới.

Kể từ đó tới nay, những ngành công nghiệp được cho là mũi nhọn của đất nước vẫn đang ngốn số vốn khổng lồ, được o bế bằng các chính sách bảo hộ nhưng hiệu quả kinh tế của các ngành này vẫn là một câu hỏi lớn.

Hàng năm, báo cáo về sản xuất công nghiệp vẫn nhắc lại những kết luận quen thuộc như hàm lượng giá trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp còn thấp; tỷ lệ sản xuất gia công còn cao; công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chưa cao. [1]

Một thí dụ điển hình là ngành ô tô. Tỷ lệ lắp ráp trong nước của ngành này chỉ đạt khoảng 5 - 10% trong khi phần linh kiện, máy móc nhập khẩu từ nước ngoài chiếm tới 90 - 95%. [2]

Thật đáng suy nghĩ khi mà ở một đất nước với thu nhập bình quân mới vượt qua ngưỡng nghèo như Việt Nam, giá ô tô lại cao hơn so với các nước giàu nhất thế giới bởi các loại thuế, phí đã đội giá ô tô nhập khẩu lên nhiều lần. Thực chất, đây là một biện pháp nhằm mục đích bảo hộ ngành ô tô nội địa.

Người viết dẫn ra những ví dụ này không nhằm mục đích phủ nhận những hiệu quả kinh tế tích cực nhất định mà chính sách công nghiệp hóa mang lại. Tầm quan trọng của công nghiệp trong nền kinh tế là điều cần thừa nhận. Đúng như lời bàn của Lê Quý Đôn rằng "phi công bất phú"- không có công nghiệp thì đất nước không thể trở nên phú cường được.

Tuy nhiên, công nghiệp hoá cần phải có một hướng đi rõ ràng, cụ thể, phù hợp với điều kiện của đất nước, có cân nhắc đến nguồn tài nguyên và khả năng kết hợp với các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi không xem xét một cách toàn diện các nhân tố trên, không những không đem lại thành tựu tương xứng mà còn có thể gây ra nhiều tác hại, để lại những hậu quả nặng nề về sau.

{keywords}
Ảnh minh họa

Đã quên mình "chân quê"

Từ nhận thức đó, người viết muốn dẫn bạn đọc chuyển sang câu chuyện về nông nghiệp. Vai trò của nông nghiệp nên được đặt ở đâu trong tiến trình công nghiệp hóa là điều mà người viết muốn đề cập trong phần còn lại của bài viết.

Người ta vẫn hay phê phán những ai mới "ra tỉnh" đã quên mình cũng "chân quê" nhưng ít ai nhận thấy cách ứng xử đó cũng đang diễn ra ở tầm vĩ mô.

Như một nghịch lý, một đất nước thoát thai từ nông nghiệp, có điều kiện tuyệt vời để phát triển nông nghiệp như Việt Nam lại đang coi rẻ "bầu sữa" đã nuôi lớn mình để chạy theo giấc mơ nhanh chóng trở thành nước "công nghiệp hiện đại."

Những lý thuyết cơ bản về thương mại quốc tế đều khẳng định mỗi quốc gia nên tập trung vào những ngành sản xuất mà quốc gia đó có lợi thế so sánh. Khi tham gia vào thương mại quốc tế, một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng mà quốc gia đó có nguồn lực sản xuất dồi dào.

Đối với Việt Nam, các lý thuyết này đã được minh chứng trên thực tiễn. Nhờ có truyền thống nông nghiệp, với điều kiện thiên nhiên ưu đãi và lực lượng lao động nông nghiệp đông đảo, Việt Nam từ nhiều năm qua đã trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới.

Thế nhưng, bất chấp những lý thuyết kinh tế và bằng chứng thực tiễn về vai trò lớn lao của nông nghiệp, nhiều nhà làm chính sách vẫn hùng hồn tuyên bố rằng không thể giàu lên nhờ nông nghiệp vì ... bao nhiêu tấn gạo mới đổi được một con chip điện tử. Đó là lối tư duy tiểu nông được che giấu bởi những lời ngụy biện chỉ hợp lý ở vẻ bề ngoài.

Người viết cho rằng nông nghiệp hoàn toàn có thể làm cho đất nước giàu lên, và không dựa vào lợi thế so sánh sẽ là một bước đi sai lầm. Tại sao Việt Nam lại "cố sống cố chết" chạy theo giấc ảo mộng về việc trở thành nước công nghiệp hiện đại trong khi việc trở thành nước nông nghiệp hiện đại là một mục tiêu vừa tầm tay hơn rất nhiều?

Đồng ý rằng có nhiều trường hợp hàng chục tấn gạo mới đổi được một con chip điện tử. Nhưng không lẽ vì thế chúng ta sẵn sàng đánh đổi hàng ngàn hecta đất nông nghiệp để xây dựng những khu công nghiệp, tập trung vào những ngành không có lợi thế so sánh trong khi thế giới đã bỏ xa chúng ta. Để rồi cuối cùng chỉ là kẻ làm công, chỉ đơn thuần thực hiện những công đoạn lắp ráp giản đơn.

Nông sản có giá trị thấp hơn sản phẩm công nghiệp là một thực tế. Vấn đề đặt ra là làm sao để nâng cao được giá trị gia tăng của nông nghiệp. Có hai con đường là giảm chi phí sản xuất và tăng cường công nghiệp chế biến. Muốn làm được điều đó phải dựa vào công nghiệp.

Do vậy, không nên đặt nông nghiệp và công nghiệp lên bàn cân để xem trong những năm qua chúng ta lập thành tích giảm tỉ trọng nông nghiệp được đến đâu mà phải đặt ra bài toán công nghiệp hóa nông nghiệp thế nào cho hiệu quả.

Nhận thức của Việt Nam về vai trò và vị trí của nông nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế nên có sự thay đổi cơ bản. Nông nghiệp cần phải trở thành trung tâm của nền kinh tế và các ngành công nghiệp, dịch vụ phải phát triển xoay quanh nông nghiệp, phục vụ cho nông nghiệp.

Theo sau việc đầu tư phát triển nông nghiệp, ngoài công nghiệp chế biến được đẩy mạnh, còn cần công nghiệp sản xuất phân bón, máy móc trang thiết bị, sản xuất sản phẩm cao cấp từ nông nghiệp... Các ngành dịch vụ như vận tải, phân phối cũng sẽ được nông nghiệp tạo đà phát triển. Những ngành công nghiệp không phù hợp vì thiếu lợi thế so sánh cũng sẽ nhờ đó được loại bỏ.

Liên quan trực tiếp tới nông nghiệp là ẩm thực. Càng đi ra nước ngoài mới càng thấy sự tinh túy của nền ẩm thực Việt Nam. Giáo sư Marketing hàng đầu Philip Kotler từng nói, Việt Nam có thể trở thành đầu bếp của thế giới. Xét đến cùng đó cũng là câu chuyện xoay quanh lợi thế về nông nghiệp của nước ta.

Nhưng thay vì trân trọng những gì đang có, chúng ta lại đang hủy hoại lợi thế của chính mình bằng cách "đầu độc" nền ẩm thực tinh túy đó với các loại thực phẩm và quy trình chế biến ô nhiễm, kém chất lượng.

Điều đó cho thấy, trong cái nhìn của người làm chính sách, nông nghiệp vẫn chỉ là một viên sỏi thô ráp, đơn sơ chứ chất ngọc bên trong nó chưa được phát lộ.

"Phi nông bất ổn"

Cùng với mức độ quan tâm chưa tương xứng tới nông nghiệp trong nền kinh tế, người nông dân Việt Nam - lực lượng chiếm đa số dân số cả nước - những người tạo ra khối lượng nông sản khổng lồ phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu cũng chỉ có tiếng nói yếu ớt trong xã hội. Mỗi khi nền kinh tế gặp khó khăn, người ta chỉ thấy những đại gia lên tiếng còn người nông dân chỉ biết "kêu trời".

Trong thời gian học tập ở Thụy Sĩ, người viết có cơ hội được chứng kiến đời sống nông dân ở một nơi mà nông nghiệp được hết sức quan tâm. Tại đây, không có cảnh những người nông dân chân lấm tay bùn đầu tắt mặt tối nhờ sản xuất nông nghiệp được công nghiệp hóa cao. Tỷ trọng giá nông sản so với sản phẩm công nghiệp cũng tương đối cao.

Chưa kể người nông dân được bảo hộ và trợ cấp nên họ thực sự trở thành những "phú nông" với mức sống không kém bất cứ ngành nghề nào trong xã hội.

Điều đó khiến người viết cảm thấy vô cùng day dứt khi nghĩ tới người nông dân Việt Nam. Không những lao động cực nhọc vì phương thức sản xuất lạc hậu, chí phí sản xuất lớn nhưng hiệu quả sản xuất chưa cao, người nông dân Việt Nam còn phải đối mặt với đủ các rào cản khi tham gia vào thương mại quốc tế.

Nhưng mối đe dọa nghiêm trọng hơn cả có lẽ xuất phát từ chính thái độ coi rẻ vai trò nông nghiệp. Trong mối tương quan với công nghiệp, nông nghiệp luôn ở thế yếu hơn. Không những bị lép vế trong ưu tiên phát triển mà nông nghiệp còn sẵn sàng bị hi sinh để phát triển các ngành công nghiệp có khói và không khói.

Đất đai sản xuất nông nghiệp không phải bỗng dưng mà có, mà phải mất hàng trăm năm vỡ hoang, cải tạo. Các nước trên thế giới đều tránh động chạm tới quỹ đất nông nghiệp. Vậy nhưng ở nước ta chỉ cần căn cứ vào một câu "thu hồi đất vì mục đích phát triển kinh tế" là đất ruộng sẽ trở thành nền khu công nghiệp, nền chung cư, biệt thự, sân golf.

Điều đáng nói là chúng ta mới chỉ biết "phi công bất phú" nhưng lại quên mất câu "phi nông bất ổn." Sự ổn định mà nông nghiệp đem lại không phải chỉ là an ninh lương thực mà còn là những lợi ích trong bảo vệ, cải tạo môi trường, gìn giữ tài nguyên thiên nhiên, phân bố dân cư, lao động...

Hãy nhìn vào những nước đã đi lên từ nông nghiệp. Cho đến nay các nước này vẫn duy trì nền nông nghiệp như một phần không thể thiếu bên cạnh một nền công nghiệp phát triển, tạo sự cân đối, hợp lý cho nền kinh tế, hướng tới phát triển bền vững.

Người viết tin chắc rằng để trợ cấp, bảo hộ nông nghiệp vẫn có những cách làm phù hợp. Bởi lẽ chính các quốc gia phát triển lại là những nước bảo hộ nông nghiệp mạnh mẽ nhất. Việc các nước lớn từ chối mở cửa thị trường nông nghiệp là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự thất bại của vòng đàm phán Doha.

Trong khi đó ở Việt Nam, nơi mà người nông dân vẫn chưa phải là đối tượng được quan tâm trong chính sách phát triển kinh tế thì việc được hưởng những khoản trợ cấp như thế sẽ còn là tương lai xa vời.

Giờ đây, khi chúng ta vẫn tiếp tục "xà xẻo" nông nghiệp để phục vụ phát triển công nghiệp, hãy nhớ rằng chúng ta cũng sẽ phải chịu trách nhiệm với hậu thế về thái độ ứng xử tương tự mà chúng ta đang dành cho nông nghiệp.

  • Khương Duy

.......

[1] http://vietstock.vn/2013/06/4-nganh-cong-nghiep-trong-yeu-phat-trien-cham-768-302276.htm

[2] http://tintuc.vibonline.com.vn/Home/Su-kien-Binh-luan/10361/Long-leo-cum-lien-ket-nganh