Khoảng cách khá xa giữa khát vọng văn hóa với tài năng thể hiện (liệu trong đó có chứa đựng cả tình trạng hoang tưởng về tài năng?) luôn là bài toán khó giải đối với bất kỳ địa phương, tổ chức nào muốn sử dụng lễ hội làm phương tiện quảng bá.

>>Kỳ 1: Những nỗi niềm...ngoài "lễ hội"

>> Kỳ 2: Người ta đang 'hiện đại hóa' lễ hội

Tới hôm nay, nếu nói rằng, suốt mấy tháng sau Tết Âm lịch, cả nước đi đền, đi chùa thì cũng không ngoa. Hệ quả là tour du lịch trong nước luôn dày đặc các cuộc viếng thăm chùa chiền, miếu mạo, du khách đến nơi này khấn vài cái, đến nơi kia khấn vài cái là hết... tour.

Những lễ hội... "nhất đán, nhất kỳ"

Phải chăng, có một nghịch lý đã và đang tồn tại trên đất nước này, là trong khi lạm phát như con "ngáo ộp" có thể sẵn sàng nhảy ra bất cứ lúc nào, thì con người ta vẫn thản nhiên chi tiêu hàng chục tỷ đồng. Chỉ đề vào một loại hoạt động cần thể hiện bằng lòng thành kính, hơn là bày tỏ một cách phung phí với vô vàn các loại hàng mã. Từ tệp "tiền âm phủ" đến chiếc "máy bay" kềnh càng kèm theo hình nhân thiếu nữ để tiền nhân có "người giúp việc".

Nghịch lý này còn được bổ sung bằng các lễ hội rình rang được phát trên vô tuyến truyền hình, với sân khấu đồ sộ, cờ xí phần phật, trống phách rộn ràng, và khán giả luôn phải ngồi ngáp ngắn ngáp dài để "xơi" cho xong mấy bài diễn văn dài dằng dặc, mà nội dung nhiều khi... chẳng mấy khác nhau.

Phải chăng, chúng ta đang được chứng kiến một kiểu loại hội hè mà dường như đã và đang trở thành một thứ nguyên cớ để tiêu tiền hợp pháp? Vả lại, liệu có thể phê phán loại hiện tượng này khi người ta nhân danh đủ thứ? Nhân danh văn hóa, nhân danh truyền thống, nhân danh tấm lòng với tổ tiên, nhân danh ngành "công nghiệp không khói", nhân danh ý nghĩa quảng bá hình ảnh của nước nhà?

Một trong các lý do để tổ chức hội hè là việc dăm năm trở lại đây, một số địa phương thi nhau làm hồ sơ đăng ký di sản văn hóa với UNESCO. Để làm hồ sơ, không ít kinh phí đã được chi ra, không ít hội thảo đã được tổ chức.

Đón cái bằng chứng nhận về treo ở nơi trang trọng, để thi thoảng nhà chức trách ngắm nghía hoặc khoe với quan khách, còn dân bản địa, liệu có bao nhiêu người hào hứng? Nhưng "một miếng giữa thế giới" chắc phải hơn "một sàng trong nước"!?

Và vì thế, trên báo Tuổi trẻ ngày 26.4.2010, nhà văn Nguyên Ngọc nói: "Tình trạng đó thật sự là một tấn "bi hài kịch". Nó thậm chí còn có thể kéo những người đứng đắn ra xa khỏi các hoạt động văn hóa vốn dĩ rất đáng được coi trọng. Chỉ vì nó được nhắc đến quá nhiều bằng các danh hiệu và các kỷ lục đến mức phản cảm. Nó cào bằng các giá trị và đến một lúc sẽ khiến lớp trẻ không còn biết tin vào thang giá trị nào".

Còn TS Nguyễn Văn Huy nhận xét: "Do công việc, tôi phải đi khá nhiều nước trên thế giới và chưa thấy ở đâu người ta lại "mê" được UNESCO công nhận như ở Việt Nam...

Nguyên nhân của tình trạng cười ra nước mắt này có thể kể ra rất nhiều, nhưng theo tôi, nhà lãnh đạo đã không đủ quan tâm hay kiến thức cần thiết để có nhận thức chính xác: Đâu là những giá trị thật cần được bảo vệ, đâu là những hoạt động mang tính hình thức, đâu là những giá trị mà chúng ta có thể sánh vai với thế giới...

Khi nào các vị lãnh đạo văn hóa và cả xã hội không còn bị hấp dẫn bởi những cái "nhất", cái "vĩ đại", "kỳ vĩ"... mà nhìn xuống những gì nhỏ nhất đang vận động xung quanh mình, khi đó văn hóa và những giá trị cũ cũng như mới của nó mới được thừa nhận và hấp dẫn như chúng ta mong muốn".

Rồi tượng đài lớn nhỏ dựng lên khắp trong nam ngoài bắc. Tượng đài để nhớ, để tri ân, để lưu hình thiên cổ, cũng tốt thôi. Nhưng sau cái ngày rầm rộ vận chuyển tượng đài lên Điện Biên Phủ, cả nước hân hoan vì một công trình lịch sử - văn hóa để tưởng nhớ các anh hùng đã ngã xuống vì dân tộc, đứng sừng sững trên đồi A1; thì ngay sau đó, cả nước lại kinh hoàng, thất vọng vì công trình mang trong đó niềm tự hào của bao nhiêu con người, hóa ra là đồ "dỏm", là nơi người ta xài ngón bán thầu và rút ruột.

Vũ công carnaval tại Lễ hội đường phố Carnaval Hạ Long 2010. Ảnh: Thanh Hà/TTXVN

Phải chăng, chỉ vì thói vụ lợi và sự ích kỷ, người ta đã không đếm xỉa tới niềm tin của đồng bào, tới phẩm giá dân tộc?

Thế nhưng, đó cũng là nguyên cớ để một số nơi tổ chức lễ hội, và lễ hội kiểu này đã tạo ra cơ hội cho mấy ông bà nghệ sĩ "tuần chay nào cũng nước mắt". Vất vả rong ruổi từ bắc vào nam để rải... tài năng khắp nước. Cho dù thỉnh thoảng họ có cãi nhau chí chóe về kịch bản, ai được nhận hợp đồng đạo diễn.

Phải chăng, sự có mặt như là theo tinh thần "tự nhiên như nhiên" của Công ty tổ chức sự kiện SL trong các chương trình nghệ thuật tại Festival Cồng chiêng, lễ hội Carnaval Hạ Long, thi bắn pháo hoa Quốc tế Đà Nẵng,... đã khiến người xem không khỏi liên tưởng tới sự nhàm chán?

Vì, hầu như lễ hội nào cũng lặp đi lặp lại màn trình diễn mở đầu bằng đội trống gõ thì thùm, dăm chục người vác lá cây cách điệu hoành tráng chạy đi chạy lại. Rồi đèn đuốc phập phừng, ánh sáng laser loang loáng. Thêm mấy người đóng khố đội khăn cắm lông chim giả làm... tổ tiên vác cờ chạy vòng tròn.

Lễ hội nào không có Trọng Tấn, Anh Thơ hay "tam ca đỏ" thì cũng phải mời bằng được vài ca sĩ đang "hót". Còn các diễn viên múa, nếu không vung tay luỳnh khuỳnh, đá chân lên cao, thì cũng múa nón vào rồi lại múa nón ra...

Dù các chương trình như thế có trở nên nhàm chán, người ta vẫn không coi đó là điều phải e ngại, vẫn phát trên vô tuyến truyền hình đặng giúp đồng bào cả nước có cơ hội thưởng thức!

Khoảng cách khá xa giữa khát vọng văn hóa với tài năng thể hiện (liệu trong đó có chứa đựng cả tình trạng hoang tưởng về tài năng?) luôn là bài toán khó giải đối với bất kỳ địa phương, tổ chức nào muốn sử dụng lễ hội làm phương tiện quảng bá.

Để rồi, dù một ông từng là tổng đạo diễn Lễ hội Carnaval ở tỉnh nọ có cả quyết: "Không bắt chước ở đâu cả!"

Khán giả khi trực tiếp có mặt tại lễ hội hay chỉ xem qua truyền hình, đều nhận ra các nét khác biệt, riêng có trong đời sống văn hóa, truyền thống văn hóa của tỉnh nọ, thì ai đã xem các chương trình Carnaval tổ chức tại Brazil hay một nước Latin America nào đó qua các kênh truyền hình Discovery Channel, National Geographic Channel... sẽ không khó để nghĩ tới tình trạng một vài "dị bản" đã xuất hiện ở ven Biển Đông!

Để rồi, lễ hội kết thúc, hàng tấn phông màn, băng rôn, khẩu hiệu,... được tháo dỡ. Một hai cuộc họp để tổng kết được tiến hành. Hàng chục cơ quan, đơn vị được biểu dương, vài chục bằng khen được trao tặng, nhưng hầu như chưa ai biết việc quyết toán có kết quả ra sao.

Còn dân chúng địa phương thì trở về với cuộc sống thường ngày và chỉ ít ngày sau, lễ hội đã trở thành quá khứ. Để rồi, khi cái bằng của UNESCO đã được treo nghiêm ngắn thì lại bắt đầu hỏi nhau phải làm gì đây để duy trì, phát huy di sản đã được công nhận? Và câu hỏi này chính là cơ sở để tiếp tục ra đời... vài cuộc hội thảo!

Tính...vô số

Theo học giả Đoàn Văn Chúc, nếu lễ là "sự bày tỏ kính ý đối với một sự kiện xã hội hay tự nhiên, hư tưởng hay có thật, đã qua hay hiện tại, được thực hành theo nghi điển rộng lớn và theo phương thức thẩm mỹ, nhằm biểu hiện giá trị của đối tượng được cử lễ và diễn đạt thái độ của công chúng cử lễ" (Đoàn Văn Chúc - Văn hóa học, Viện Văn hóa, NXB Văn hóa - Thông tin, H.1977, tr.131).

Khi cái bằng của UNESCO đã được treo nghiêm ngắn thì lại bắt đầu hỏi nhau phải làm gì đây để duy trì, phát huy di sản đã được công nhận? Và câu hỏi này chính là cơ sở để tiếp tục ra đời... vài cuộc hội thảo!

Thì hội "là từ dùng chỉ thành phần ngoài - lễ của các cuộc kỷ niệm từ quy mô cộng đồng làng xã trở lên" (Đoàn Văn Chúc, Sđd, tr.131). Và "Hội bao giờ cũng có nhiều trò vui, nên gọi là "bách hí". Tính vô số đến như hỗn độn, tràn đầy trò vui, đích là một đặc điểm căn bản của hội.

Người ta nói "vui xem hát, nhạt xem bơi, tả tơi xem hội" là xuất phát từ tính vô số trò chơi của hội. Hội nhiều trò vui đến mức người xem ngược xuôi hết chỗ này sang chỗ khác, tả tơi cả người, mà thiếu sự tả tơi ấy thì không vui thú được, thì hội nhạt.

Tính vô số này gắn liền với một phương diện tâm lý học công chúng hội: Mỗi người trong cuộc sống hàng ngày đều có những dồn nén được giải tỏa theo cách phù hợp với mình, thì hội với vô số trò vui của nó, có khả năng đáp ứng sự giải tỏa căng thẳng của mỗi công chúng đến hội.

Mỗi người đến hội được tự do chọn trong gian hàng "bách hí" cái mình ưa thích nhất, kể cả gian hàng "công chúng thanh lịch muôn vẻ" từ muôn phương kéo đến. Tuy nhiên, có những hội chỉ có một loại trò vui: Hội pháo, hội vật, hội thả chim...

Ở đây, tính mềm dẻo, linh hoạt của hội được biểu thị: Hội pháo thì vô số thứ pháo, cỡ pháo; hội vật thì vô số cặp đô, hoặc như hội Chùa Hương thì là tính vô số chùa chiền, hang động. Tính vô số về loại hay chủng, chi chủng cũng là tính vô số đáp ứng yêu cầu đa dạng trong một phương diện thú vui" (Đoàn Văn Chúc, Sđd, tr.130 - 131).

Xét từ ý kiến trên, có lẽ đã đến lúc phải nói thẳng ra rằng, khi tổ chức lễ hội, một số tổ chức và cá nhân đã chưa tìm hiểu kỹ xem lễ hội là gì. Nên người ta quan tâm quá nhiều đến cuộc lễ mà không quan tâm tới tính vô số về trò chơi trong ngày hội.

Hẳn là vì thế, khi tổ chức triển lãm hoa mà lại gắn cho nó tên gọi "lễ hội hoa", người ta đã không thể lý giải tại sao công chúng lại phá nát, làm hư hỏng hoa trưng bày. Đơn giản vì, công chúng đến đó với tâm thế của người đi hội, chứ không phải với tâm thế của người... xem triển lãm!

Nguyễn Hòa