Tuanvietnam tiếp tục cuộc trao đổi với Giáo sư David Elliott.

Kỳ 1: Sự kiện 1975 và học thuyết sụp đổ từ từ

Khi Nixon lên nắm quyền, ngay từ ngày đầu, Nixon đã để ý tới con bài Trung Quốc?

Không phải ngay lập tức, nhưng chỉ ít lâu sau ông đã gián tiếp đặt ý muốn nối lại quan hệ ngoại giao với Trung Quốc thông qua Tổng thống Pakistan Agha Muhammad Yahya Khan, hay lãnh tụ Đảng Cộng sản Romania Nicolae Ceausescu.

Tôi muốn khẳng định một điều rằng sự điều chỉnh chiến lược ngả sang Trung Quốc là của Nixon, chứ không phải của Kissinger. Kissinger thậm chí còn không nghĩ tới Trung Quốc nữa. Tất nhiên, sau đó, Kissinger can dự sâu vào chuyện này, nhưng ý tưởng là của Nixon.

Nixon ban đầu chỉ nghĩ rằng cần thiết phải tìm cách giảm bớt sự ủng hộ giành cho Hà Nội, với mục đích rõ ràng: Ông ta biết là không thể thắng trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, nhưng ông ta cũng không muốn thua nó.

Chính vì vậy, cần phải tìm một giải pháp mà các bên đều chấp nhận được. Ông ta hy vọng thông qua con đường đàm phán, Moscow và Bắc Kinh sẽ gây sức ép với Hà Nội, theo kiểu gì đó tương tự với hiệp định Geneva.

Thế nhưng, dần dần Nixon mới vỡ lẽ ra rằng, sau gần 20 năm Việt Nam đã khác, tức là Liên Xô và Trung Quốc không còn có ảnh hưởng to lớn như trước kia với Hà Nội.

{keywords}
Giáo sư David Elliott

Trong khi đó, Chính quyền Sài Gòn lại giành lợi thế ban đầu vào thời gian đầu của nhiệm kỳ Nixon, trong chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Kể từ khi Nixon lên cầm quyền (đầu năm 1969) đến đầu năm 1971, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố rằng ông ta kiểm soát 95% lãnh thổ, đặc biết là vùng nông thôn, và kết quả là chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh tưởng như đã thắng lợi(!). Thậm chí Nixon lúc đó nghĩ rằng người Mỹ có thể rút quân mà không bị tổn thất, và chính quyền Thiệu vẫn đứng vững.

Thế nhưng, từ thời điểm năm 1971, tình hình bắt đầu thay đổi.

Tình hình chiến sự cho thấy quân lực Việt Nam Cộng hoà không kiểm soát được tình hình như họ tuyên bố, rằng "chiến lược Việt Nam hoá" thất bại, rằng quân lực Việt Nam Công hoà không thể tự mình chiến đấu mà không có sự yểm trợ của không lực Hoa Kỳ được.

Rồi sang năm 1972, bộ đội Bắc Việt và Mặt trân Dân tộc Giải phóng đã phản công. Điều đó có nghĩa là nếu không có không quân của Mỹ, Việt Nam Cộng hoà khó có thể cầm cự được.

Cuộc ném bom Hà Nội được biết dưới cái tên "12 ngày đêm" thực sự có ý nghĩa gì? Nếu Hà Nội thất thủ thì sao?

Tôi mới nói tới không lực Mỹ ở Bình Định, Phú Yên, tức là ở miền Trung, nhằm ngăn chặn bước tiến của quân đội Bắc Việt. Hay ở An Lộc, khi B52 ngăn chặn bước tiến của quân đội Bắc Việt.

Các cuộc ném bom này chứng tỏ không có sự tham gia của không lực Hoa Kỳ, quân đội Sài Gòn sẽ thất bại, và đó là lý do của các cuộc đánh phá miền Bắc trong năm 1972, kể cả "cuộc tấn công Giáng Sinh".

Phía Mỹ nói rằng Bắc Việt Nam leo thang chiến tranh, và người Mỹ không cảm thấy an toàn bởi những hành động của miền Bắc, và phải ném bom miền Bắc để trả đũa.

Đây là những dấu hiệu của phía Mỹ khẳng định Mỹ sẽ tính toán mọi hành động trả đũa, nếu Hà Nội tấn công ở phía Nam. Bởi, trong lúc đó, cuộc đàm phán Paris vẫn tiếp tục.

Tất nhiên, cuộc ném bom dữ dội nhất là "cuộc ném bom Giáng sinh". Lời giải đáp rõ ràng nhất cho cuộc ném bom này là Nixon phải có những động thái nhất định củng cố niềm tin cho Nguyễn Văn Thiệu, bởi tháng 10 năm 1972, Kissinger đã tuyên bố đạt được hiệp định Paris về nguyên tắc với phía Bắc Việt.

Trong khi đó, Thiệu nói rằng ông ta cần phải suy tính thêm, bởi, theo tinh thần dự thảo, quân đội miền Bắc vẫn nằm nguyên ở miền Nam, thay vì rút ra Bắc. Và, như vậy, ký hiệp định là một thất bại với Chính quyền Sài Gòn.

{keywords}
Máy bay B-52 của Mỹ bị quân và dân Thủ đô Hà Nội bắn rơi, phơi xác trên cánh đồng ngoại thành trong những ngày cuối tháng 12/1972. Ảnh: TTXVN

Nixon không còn cách nào khác là phải thuyết phục Thiệu phải ký để mang lại hòa bình, như ông ta đã hứa với cử tri Mỹ hồi bầu cử nhiệm kỳ 2 (tháng 11 năm 1972). Và cách duy nhất để thuyết phục Thiệu là "sẽ có leo thang chiến tranh cực kỳ lớn từ phía Mỹ: Điều B52 ném bom ở Hà Nội, và gây ra những tổn thất to lớn cho đối phương".

"Đó là hành động cuối cùng tôi làm cho các ông, Hà Nội sẽ bị thiệt hại nặng, và các ông đủ sức đương đầu với họ, Nixon nói với Thiệu như vậy. Còn nếu các ông không ký hiệp định, lỗi tại các ông."

Trả lời lại câu hỏi của anh, tức là liệu Hà Nội thất thủ thì sao, cả Nixon và Kissinger đều biết rằng cuộc ném bom sẽ không làm thay đổi được tình hình, nó chỉ có ý nghĩa tượng trưng: đối với đồng minh, Mỹ đã làm hết sức để làm suy yếu kẻ thù.

"Đấy, ông (Thiệu) nhìn thấy cả thế giới lên án tôi (Nixon), nhưng tôi vẫn làm điều đó vì ông. Bây giờ, đến lượt ông hãy là gì đó cho tôi, hãy ký vào hiệp định."

Khi Cố vấn Lê Đức Thọ từ chối nhận ½ giải thưởng Nobel, cùng Kissinger, ông có nghĩ rằng ông không nhận vì biết chắc Hiệp định Paris sẽ không được tuân thủ nghiêm túc, như sau này đã diễn ra?

Tôi nghĩ là không. Xem xét tình hình lúc bấy giờ, ta thấy Hiệp định Paris mang lại nhiều lợi ích cho phía Bắc Việt, so với Sài Gòn, và là một bước tiến quan trọng cho tiến tranh thống nhất đất nước.

Và chính Sài Gòn đã đi đầu trong việc vi phạm hiệp định, điều tôi ghi khá kỹ trong cuốn sách về Chiến tranh Việt Nam của tôi. Bởi lẽ, họ ý thức rằng hiệp định được ký không phải vì lợi ích của họ.

Tôi không thực sự hiểu rõ tình hình sẽ diễn biến thế nào, nếu hiệp định Paris được tôn trọng. Nhưng tôi tin Thiệu sẽ đổ, và có thể một chính phủ gồm 3 phái sẽ lên, ôn hòa và trung lập hơn, và quá trình thống nhất đất nước sẽ đi theo hướng khác.

Ông Thiệu mong đợi gì ở việc vi phạm Hiệp định Paris? Ông ta hy vọng rằng người Mỹ sẽ quay trở lại, nếu chiến tranh lại nổ ra dữ dội?

Có lẽ vậy. Ông Thiệu nghĩ rằng nếu ông ta đưa chiến tranh trở lại, người Mỹ sẽ quay lại, và giúp đỡ ông ta. Đó cũng chính là câu hỏi của phía Hà Nội, vào cuối năm 1974, (tôi đọc các tư liệu của Hà Nội sau này), trước khi tổng tấn công giải phóng miền Nam: Liệu người Mỹ có quay trở lại không? Câu trả lời là không.

Nói chung, Bắc Việt có rất ít lợi ích trong việc vi phạm hiệp định Paris, và các con số thống kê cho thấy phần lớn các vụ vi phạm đều do Thiệu tiến hành. Sau đó thì tới Bắc Việt với quy mô lớn và đã thành công.

Với nước Mỹ, Hiệp định Paris đã không còn giá trị từ ngày 30/4/1975.

Ông có nghĩ rằng, tức là sau 30.4.1975, nếu ý thức rõ rằng hiệp định Paris, Việt Nam sẽ không tốn phí 2-3 năm trời đàm phán bình thường hóa với Mỹ với điều kiện tiên quyết là đòi bồi thường chiến tranh, nhờ đó sẽ tránh được chiến tranh biên giới 1979?

Tôi nghĩ đây thực sự là một vấn đề rất phức tạp, và lẽ ra tôi phải nghiên cứu kỹ và viết sách về vấn đề này nhiều năm rồi. Nhưng tôi vẫn cho rằng Việt Nam đã không gặp may khi bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ vào cuối những năm 1970....

Xin cám ơn ông.

Huỳnh Phan