
Ngày 30/6/2013 trang Web của Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa tin: Theo quy hoạch mới được công bố, đến năm 2020, tổng quy mô đào tạo ĐH và CĐ đạt khoảng 2.200.000 sinh viên, và số SV chính quy tuyển mới đạt khoảng 560.000. Cả nước có 460 trường CĐ và CĐ, bao gồm 224 trường ĐH và 236 trường CĐ.
Ngày 6/7/2013 lại có tin: "Bộ trưởng Bộ GD& ĐT Phạm Vũ Luận vừa ký Quyết định thành lập Ban chỉ đạo (BCĐ), Ban tổ chức (BTC) hội thảo góp ý Đề án "Đổi mới căn bản, toàn diện GD& ĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế".
Vào thời điểm này, kỳ thi tuyển sinh ĐH, CĐ năm 2013 chưa có kết quả, tuy nhiên các thông tin trái chiều được truyền thông tung lên khiến người đọc không khỏi bối rối. Theo Giaoduc.net.vn ngày 1/7/2013 Thứ trưởng Bộ GD& ĐT Bùi Văn Ga cho biết, kỳ thi tuyển sinh năm 2013 có thể Bộ sẽ không dựa vào chỉ tiêu như những năm qua, mà dựa vào năng lực học sinh có thể tiếp thu kiến thức ở bậc ĐH hay không. Một trong các cách tiếp cận là dựa vào đỉnh của phổ điểm tuyển sinh theo các khối [1].
Vietnamnet.vn thì lại đặt câu hỏi: "Điểm sàn ĐH năm 2013 sẽ cao?" [2].
Thông tin trên Giaoduc.net.vn có thể là một tin vui với các trường ĐH, CĐ tốp dưới, đặc biệt là các trường ngoài công lập. Bởi dựa vào đỉnh của phổ điểm tuyển sinh thì điểm sàn sẽ không cao như năm 2012. Điểm sàn không cao tạo cơ hội cho nhiều thí sinh trúng tuyển. Đứng trên góc độ quản lý ở tầm vĩ mô, không thể không đặt câu hỏi: Liệu sau dăm, bảy năm nữa giáo dục ĐH Việt Nam có tránh khỏi "vết xe" của bất động sản hiện tại?
Số liệu tuyển sinh từ 2006-2009 theo công bố của Bộ GD& ĐT cho trong bảng 1 [4], số liệu 2010-2012 dựa vào tỷ lệ tăng trưởng của Tổng cục thống kê [7].
Bảng 1: Chỉ tiêu và số lượng tuyển sinh thực tế
|
2006 |
2007 |
2008 |
2009 |
2010 |
2011 |
2012 |
Chỉ tiêu |
268.389 |
366.660 |
427.105 |
502.461 |
514.000 |
548.000 |
560.000 |
Tuyển sinh thực tế |
284.979 |
354.194 |
439.064 |
481.866 |
539.690 |
604.453 |
676.987 |
Tỷ lệ (%) |
106,3 |
96,6 |
102,8 |
95,9 |
105 |
110,3 |
121 |
Cuối năm 2012, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong số 984.000 người thất nghiệp, có 166.500 người tốt nghiệp ĐH, CĐ [3]
Giả thiết rằng những người tốt nghiệp năm 2012 đều nhập học năm 2008 [4] thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ là 37,9% (166.500/439.064), nghĩa là chỉ có khoảng 62% SV tốt nghiệp ĐH, CĐ có việc làm. Ngược với số liệu của Tổng cục Thống kê, báo Doanh nhân Sài Gòn dẫn số liệu điều tra của Bộ GD& ĐT cho thấy, có tới 63% SV tốt nghiệp ĐH, CĐ ra trường không có việc làm, 37% có việc làm nhưng nhiều SV phải làm trái nghề hoặc phải qua đào tạo lại. [5]
Sự trái ngược trong số liệu thống kê của hai cơ quan chức năng của Chính phủ là điều khó hiểu, phải chăng các phương tiện truyền thông đã tùy tiện chế biến ra các con số?
Căn cứ vào số liệu thực tế cho trong bảng 1, cộng dồn trong năm năm từ 2008 đến 2012, số SV nhập học là 2.980.311 người. Nếu tỷ lệ thất nghiệp là 37,9% như đã nêu trên thì đến 2016-2017 số người có bằng ĐH, CĐ không có việc làm sẽ là 1.132.518 người.
Theo nguyên tắc thị trường, khi hàng tồn kho nhiều thì phải giảm, thậm chí là ngừng sản xuất và tìm cách thanh lý hàng tồn, ngành GD Việt Nam đang đi ngược lại quy luật, tiếp tục tuyển sinh trong khi số người thất nghiệp ngày càng nhiều. Hậu quả sẽ không phải là sự nâng cao dân trí mà là sự lãng phí ghê gớm cả nhân lực lẫn vật lực.
Có tới 63% SV tốt nghiệp ĐH, CĐ ra trường không có việc làm. Ảnh minh họa
![]() |
Đâu là nguyên nhân bó tay của ngành GD& ĐT?
Thứ nhất, thiếu sự nhạy bén với nhu cầu xã hội và hội nhập quốc tế.
Nói chuyện với các cụ già, các cụ luôn khoe cháu nội, cháu ngoại học ĐH, hỏi tên trường thì các cụ hầu như không biết chính xác. Điều quan trọng đối với các cụ là con cháu học ĐH, trường hoặc ngành nghề chỉ xếp thứ hai. Rõ ràng là tâm lý của người Việt luôn mong muốn con em được học hành, đỉnh cao là vào ĐH.
Vậy hãy phát triển GDĐH nhưng không phải là đào tạo thật nhiều những người ngồi phòng điều hòa (Ngân hàng, Quản trị kinh doanh, Kinh tế...) mà đào tạo những người làm ra của cải vật chất (Cơ khí, Điện, Xây dựng, Mỏ địa chất...).
Giáo sư Harald Ortwig từ Trường ĐH Khoa học ứng dụng Trier (Trier University of Applied Sciences) Cộng hòa Liên bang Đức cho biết: Năm 2008 Đức có 173 trường ĐH truyền thống (theo hướng nghiên cứu) và 189 trường ĐH khoa học ứng dụng (ĐH "nghề"). Các kỹ sư thực hành ra trường có khả năng làm việc như thợ lành nghề nhưng lại có bằng ĐH.
Nếu nhìn xa trông rộng thì lẽ ra đến hôm nay nước ta phải có hàng trăm trường ĐH "nghề", chỉ khi đó mới đáp ứng hài hòa hai đòi hỏi: Mong muốn của các gia đình có con cháu học ĐH và nhu cầu phát triển nguồn nhân lực trình độ cao cho nền kinh tế. Điều đáng buồn là cho đến nay, cả nước mới có 102 trường CĐ nghề, 265 trường trung cấp nghề, chưa có một ĐH "nghề" đúng nghĩa nào, kể cả một số ĐH công nghiệp do Bộ Công Thương quản lý.
Chính mảng đào tạo nghề chưa được quan tâm đúng mức nên lực lượng lao động xuất khẩu phần lớn là lao động giản đơn, một bộ phận không nhỏ là ôsin cho các gia đình. Một đội ngũ "công nhân ĐH" xuất khẩu không chỉ làm tăng hiệu quả kinh tế mà còn giúp quảng bá hình ảnh người lao động có văn hóa, giảm bớt các hình dung xấu về người lao động Việt Nam ở nước ngoài.
Thứ hai, thiếu sự đầu tư trọng điểm
Với trường nghề, các phòng thí nghiệm, xưởng thực tập ngốn một lượng kinh phí khổng lồ, đơn cử giá một chiếc máy tiện CNC Alecop ECLIPSE là 1.400.000.000 VNĐ, số tiền này đủ mua trang thiết bị cho vài khoa đào tạo kế toán, tài chính... Kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho một trường ĐH "nghề" phải tính đến con số hàng ngàn tỷ.
Đương nhiên với cách nhìn hạn hẹp, với những đại gia "cò con" không ai chịu rút ruột bỏ ra một lượng tiền lớn như vậy. Theo rà soát nhu cầu nhân lực của Bộ LĐ- TB- XH, giai đoạn 2011-2015, mỗi năm cần phải bổ sung 1,86 triệu lao động đã qua đào tạo nghề; giai đoạn 2016-2020, cần khoảng 2,18 triệu lao động. [6]
Nếu có 100 ĐH "nghề", mỗi trường một năm cung cấp 2000 kỹ sư thực hành thì con số cũng mới chỉ là 200.000 người, còn lâu lắm mới cung cấp đủ nguồn nhân lực chất lượng cao cho cả nước theo dự báo của Bộ LĐ- TB- XH. Lấy đâu ra tiền để xây dựng hàng trăm trường ĐH "nghề"?
Câu hỏi này không dành cho Bộ GD& ĐT mà phải dành cho Ủy ban Ngân sách của Quốc hội. Bài toán ngân sách là bài toán khó nhưng không phải không có lời giải. Trước mắt cần bồi dưỡng và điều chuyển giáo viên để có thể nâng cấp khoảng 50 CĐ nghề lên ĐH "nghề". Xin lưu ý nâng cấp trường mà không nâng cấp đội ngũ giáo viên thì cuối cùng chất lượng lại trở thành... dấu hỏi.
Thứ ba, chính sách vĩ mô chưa đồng bộ
Không thể thay đổi ngay một lúc tâm lý đám đông về chuyện học ĐH, mà nên tìm cách thỏa mãn tâm lý đó, ĐH "nghề" chính là cứu cánh. Điều này phải được đặt lên bàn nghị sự ở tầm cao nhất. Nếu ngắn hạn chưa thể thành lập mới các ĐH "nghề" thì như đã đề cập ở trên, cần chuyển đổi nâng cấp một loạt trường hiện có sang đào tạo nghề. Trung hạn và dài hạn phải tập trung nguồn lực, kể cả hình thức xã hội hóa sao cho cả nước có khoảng từ 100 đến 150 ĐH "nghề".
Con số này không phải là sự tưởng tượng mà dựa vào sự tương đồng về dân số và diện tích đất đai giữa Việt Nam và Liên bang Đức (nước Đức có diện tích 357.021 km2 và dân số khoảng 82 triệu người). Mặt khác, tại các nước châu Âu, ĐH khoa học ứng dụng thường có quy mô không lớn, chỉ từ 5.000 - 10.000 sinh viên. Thời gian đào tạo là 4- 5 năm, các kỹ sư thực hành vẫn được quyền bảo vệ luận án thạc sĩ và tiến sĩ.
Cần đặt ra mục tiêu phấn đấu là trong số gần hai triệu lao động cần bổ sung mỗi năm, phải có khoảng 20 - 30% tốt nghiệp ĐH "nghề", số còn lại là các trình độ thấp hơn.
Quy hoạch mạng lưới các ĐH "nghề" phải phù hợp với quy hoạch các vùng kinh tế, địa bàn dân cư, đặc biệt là các vùng chậm phát triển.
Với hệ thống trường nghề phát triển đồng bộ từ sơ cấp đến ĐH, việc tuyển sinh vào các trường nghề theo hình thức xét tuyển cần phải được thực thi theo quy định của Luật GDĐH. Các học sinh khá giỏi ở mỗi cấp trình độ sẽ được đào tạo tiếp tục ở cấp cao hơn cho đến trình độ ĐH, điều này sẽ khuyến khích sự chăm chỉ rèn luyện của người học và cũng đỡ chi phí tốn kém cho các kỳ thi "ba chung" như hiện nay.
Nhiều nghiên cứu và bài báo cho rằng Việt Nam hiện đang "thừa thầy, thiếu thợ". Điều này chỉ đúng 50%, đúng là đất nước đang rất thiếu thợ có chất lượng, còn thừa thầy thì hoàn toàn sai. Một phần không nhỏ những người tốt nghiệp ĐH, CĐ hiện nay chỉ được trang bị kiến thức lý thuyết, trong đó có những môn học không có một chút ứng dụng nào trong sản xuất, kinh doanh.
Lý thuyết mà sinh viên nhận được từ một đội ngũ giảng viên, chủ yếu chỉ có trình độ thạc sĩ (đào tạo trong nước) không phải là lý thuyết được cập nhật liên tục, thậm chí thế giới đã không còn quan tâm nữa. Cái đội ngũ mà chúng ta gọi là "thầy thừa" ấy thậm chí không có giá trị sử dụng so với người thợ lành nghề.
Chắc chắn là nếu xuất khẩu lao động các "công nhân ĐH" sẽ được hoan nghênh hơn các "kỹ sư thùng rỗng". Sự mất cân đối nghiêm trọng giữa thầy và thợ có thể thấy được qua một ví dụ trong ngành Y tế: "Ở Việt Nam, cứ một bác sĩ thì có 1,5 điều dưỡng, trong khi tỷ lệ tối thiểu mà Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo là 01 bác sĩ/ 04 điều dưỡng. Tỷ lệ này ở Việt Nam cũng là thấp nhất trong khu vực Đông Nam Á. ( http://vnexpress.net/gl/suc-khoe/2005/03/3b9dc533/)
Sẽ là rất thiếu sót nếu đào tạo kỹ sư thực hành không được xem là nhiệm vụ then chốt trong tiến trình cải cách GDĐH.
Thứ tư, vai trò của truyền thông và phản biện xã hội
Truyền thống hiếu học của người Việt là nền tảng tuyệt vời cho phát triển GD, tuy vậy một trong những định hướng sai lầm của không ít người là học để không phải "chân lấm tay bùn". Lối tư duy "ngắn" này hình thành một phần do lỗi của truyền thông.
Truyền thông còn đang mải rao bán những tin hot theo thị hiếu rẻ tiền chứ không phải với định hướng dẫn dắt xã hội.
Và rồi các ý kiến về GD& ĐT dù đúng đắn đến mấy cũng chỉ được các cơ quan chức năng "âm thầm" nghiên cứu. Chẳng mấy khi thấy các bộ, ban, ngành công khai thừa nhận rằng ý kiến phản biện là đúng và rằng sẽ xem xét thay đổi chính sách.
Sự buông lơi của tuyên truyền khiến cho tâm lý vào học ĐH dù có biến chuyển song vẫn còn hết sức nặng nề. Hậu quả là hàng năm một số tiền lớn vẫn cứ đều đều tan thành mây khói. Lấy ví dụ kỳ thi tuyển sinh ĐH, CĐ năm 2013 có 1.673.628 hồ sơ đăng ký dự thi. Số lượng bỏ thi là 375.106 người và số trúng tuyển dự kiến 605.000 người.
Với gần 375.106 hồ sơ ảo, lệ phí nộp hồ sơ là 6.000đ/hồ sơ, số tiền vứt đi là khoảng 2,3 tỷ. Nếu cho rằng mỗi gia đình phải tốn khoảng ba triệu cho con em đi thi thì với 700.000 thí sinh bị trượt số tiền bị phung phí lên tới 2100 tỷ.
Thêm một năm thi "ba chung" là thêm vài nghìn tỷ lãng phí.
Giá nhà quản lý có thể làm tốt khâu định hướng cho người dân trong việc chọn nghề cho con cái thì hẳn sẽ không xảy ra quá nhiều hệ lụy.
Dương Xuân Thành
----------------------------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo:
[2] http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/130058/diem-san-dai-hoc-2013-se-cao-.html
[3] http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/128301/nhung-tam-bang-dai-hoc--thiu-.html
[6] http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/128301/nhung-tam-bang-dai-hoc--thiu-.html
[7] http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=507&ItemID=10836