Ngày 09/2/2009, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam đã ký quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND cho kíp xe 377. Tên tuổi của Nguyễn Nhân Triển đã có nhiều người biết nhưng mấy ai biết câu chuyện tình "có một không hai" của anh.

LTS: Một người đồng đội của Liệt sĩ Anh hùng Nguyễn Nhân Triển đã không khỏi băn khoăn về câu chuyện tình yêu vừa lãng mạn, vừa bi thương của anh đã cất công đi tìm cô gái năm xưa của người anh hùng, để biết rõ hơn câu chuyện của họ. Tuần Việt Nam xin giới thiệu bài viết của tác giả Nguyễn Khắc Nguyệt, bộ đội xe tăng về hưu.

Cách đây 40 năm- ngày 24 tháng Tư năm 1972, sau khi hoàn thành nhiệm vụ tiến công căn cứ Tân Cảnh, trung đội 3 của đại đội xe tăng 7 do thiếu úy Nguyễn Nhân Triển chỉ huy được lệnh cơ động lên tăng cường cho bộ binh đánh chiếm căn cứ Đắc Tô 2. Tại đây, kíp xe 377 do anh chỉ huy đã tả xung hữu đột, một mình bắn cháy 7 xe tăng địch. Tuy nhiên, do lực lượng xe tăng địch đến phản kích quá đông nên xe 377 đã bị bắn cháy, cả bốn thành viên trên xe đã anh dũng hy sinh. Từ đó, kíp xe 377 đã đi vào huyền thoại. Cuộc đời 4 người anh hùng trong kíp xe đó cũng đã được nhắc đến nhiều trên sách, báo và các phương tiện thông tin đại chúng.

Là một chiến sĩ xe tăng, tôi vẫn lấn cấn một điều về thiếu úy trung đội trưởng Nguyễn Nhân Triển, người chỉ huy của kíp xe này. Tại sao người trung đội trưởng dũng cảm, ngoan cường đó đã từng có lúc bị đánh giá là "tư tưởng không thông suốt, có biểu hiện nặng về tình cảm riêng tư mà xao lãng nhiệm vụ". Mặc dù anh em cùng đơn vị đã cho biết, sở dĩ có nhận xét ấy là vì lúc ấy anh Triển mới cưới vợ và vào chậm phép, vợ anh lại rất xinh đẹp nên anh nhớ vợ nhiều lúc đến ngẩn ngơ cả người. Biết vậy song tôi vẫn muốn tìm hiểu cặn kẽ hơn về chuyện này.

Nhân dịp mấy ngày nghỉ, tôi quyết định về quê hương Nguyễn Nhân Triển- xã Việt Hùng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh để tìm hiểu.

Đang là dịp nghỉ lễ, biết rằng các cơ quan không làm việc nên tôi quyết định sẽ vào nhà quản trang với suy nghĩ những người làm công tác này thường nắm rất chắc về các liệt sỹ của quê hương mình. Trong khi đó, anh Triển cũng là người khá nổi tiếng.

Dự đoán của tôi đã đúng, anh Sa, thương binh hạng 2/4 được xã giao nhiệm vụ quản trang ở đây. Biết tôi muốn tìm hiểu về liệt sỹ Nguyễn Nhân Triển, anh Sa vồn vã tiếp chuyện và kể cho tôi nghe khá nhiều mẩu chuyện về liệt sỹ. Thực tình những chuyện này tôi cũng đã biết cả rồi nên khéo léo lái sang chuyện riêng tư, vợ con của anh Triển là điều tôi đang muốn tìm hiểu. Lúc đó, cả đồng chí Việt, bí thư đảng ủy xã cũng sang thăm nghĩa trang.

Chị Mạc, vợ liệt sĩ Nguyễn Nhân Triển và cháu ngoại

Khi nghe câu hỏi của tôi, cả hai anh đều gật gù: "Chuyện tình của ông Triển thì đúng là có một không hai". Bảo các anh kể thì các anh cười: "Chú cứ gặp bà Mạc (vợ LS Triển) mà hỏi". Anh Sa chép miệng: "Mà cái bà này số cũng khổ thật. Cưới đã khổ rồi, ông ấy đi chiến trường được mấy tháng thì hy sinh. Năm 76, tái hôn với một ông khác rồi cũng chẳng ở được với nhau. Bây giờ lại về ở một mình. Đúng là hồng nhan đa truân". Nghe vậy, tôi quyết định phải gặp bằng được chị Mạc.

Vào xóm hỏi thăm một lúc thì tôi biết chị Mạc đang đi trông cháu cho con gái ở Hà Nội. Lại phải mất gần 1 giờ chờ đợi tôi mới được biết số điện thoại của chị. Bảo chị chỉ đường thì chị cười thật thà: "Chị mới lên đây nên cũng chẳng biết đây là đâu. Chỉ biết đến đầu cầu Đuống thì rẽ trái theo bờ đê khoảng 2 cây số. Đến cái nhà cao tầng màu xanh có 2 chữ Ích Lợi thì rẽ xuống một tý là đến". Mặc dù chưa thật rõ ràng song với tôi thì thế cũng là đủ.

Phải mất một lúc lâu tôi mới đến được khu vực đó. Rề rề chạy chầm chậm đang định hỏi thăm nữa thì thấy một thiếu phụ bế đứa trẻ đang hớt hải đi ngược chiều, linh cảm báo cho tôi biết đó là chị. Tôi vừa lên tiếng: "Chị Mạc phải không?" thì chị đã cười rõ tươi: "Chị đây! Chú đi nhanh nhỉ. Vừa mới gọi một tý đã đến". Tôi thật sự ngỡ ngàng, người đàn bà trước mắt tôi đã bước qua ngưỡng cửa tuổi sáu mươi mà dáng người vẫn thon thả, gương mặt nhẹ nhõm như mới ngoài bốn mươi. Chắc chắn khi còn son trẻ chị từng là một phụ nữ đẹp. Tiếng đồn trong đơn vị anh Triển quả không ngoa.

Trong căn phòng trọ hơn chục mét vuông của cô con gái, chị vừa bế cháu vừa tiếp chuyện tôi. Biết tôi là chiến sĩ xe tăng cùng binh chủng với anh Triển dường như mọi khoảng cách đã được xóa nhòa, chị đối với tôi ân cần như một người chị với đứa em trai và nói chuyện cũng rất tự nhiên. Chị cho biết đây là nơi con gái út của chị ở trọ, cháu làm công nhân công ty may Đức Giang.

Di ảnh liệt sĩ Nguyễn Nhân Triển

Năm 1976, sau khi anh Triển báo tử được hơn 1 năm thì chị tái giá. Người chồng mới của chị cũng là bộ đội từ chiến trường ra. Anh chị có với nhau 3 mặt con nhưng rồi anh ghen quá, không chỉ ghen với người sống mà ghen cả với người đã khuất. Không chịu được nên chị đành ly dị. Tuy không sống với nhau nữa nhưng chị không bỏ con. Từ bấy đến giờ chị vẫn chăm lo cho chúng. Bây giờ các cháu cũng đã trưởng thành và có gia đình rồi thì chị lại lẽo đẽo theo bế cháu hết đứa này đến đứa khác.

Khi câu chuyện đã trở nên thân mật hơn, tôi mới hỏi: "Tại sao những người ở quê đều nói đám cưới của chị với anh Triển là có một không hai trên đời ?" thì chị cười hơi có vẻ ngượng ngập, đôi má đã điểm một vài nét tàn nhang thoáng ửng đỏ lên.

Sợ mình thất thố, tôi đưa đà: "Chị thông cảm, em hơi tò mò một chút. Nếu ngại thì chị không kể cũng không sao." Chị cười: "Thực ra hồi trước chị yêu anh Chuẩn, là bạn thân của anh Triển cơ. Chỉ đến khi anh Chuẩn hy sinh thì anh Triển mới để ý đến chị. Thế rồi, hai gia đình "giấm sẵn" với nhau. Khi anh Triển về phép là hỏi và cưới luôn. Tất cả chỉ gói gọn trong có vài ngày". Tôi đùa cho không khí nhẹ nhàng hơn: "Anh Triển giỏi thật đấy. Người như chị mà chỉ có mấy ngày đã bị cưa đổ". Chị bật cười lắc đầu: "Ông ấy thì cưa cẩm gì. Người đâu mà cứ thật như đếm. Hôm hai nhà bố trí cho hai người đi lên Nội Doi mua phân hóa học cả một ngày mà ông ấy chỉ nói được vài câu". Tôi tiếp tục: "Thế mà chị lại bị đổ à ?"  thì chị trầm giọng: "Biết anh ấy là người hiền lành, chân thật nên cũng thương. Lại nữa, từ ngày biết tin anh Chuẩn hy sinh, anh ấy đã viết thư về động viên chị rất nhiều nên cũng dễ thông cảm với nhau. Chứ hồi ấy, chị tham gia văn nghệ rồi đội thông tin lưu động của huyện cũng nhiều người để ý lắm".

Ngày anh chị cưới nhau là ngày mồng 2 tháng Bảy âm lịch năm 71. Hôm ấy, bên nhà anh Triển cũng mượn được chục cây tre với vài tấm cót dựng thành cái rạp trước sân. Bàn ghế thì mượn của bà con trong xóm, đủ loại, đủ kiểu. Cả ghế đẩu, ghế dựa, trường kỷ và ghế tre nữa, trông buồn cười lắm. Còn phông trang trí thì mượn được mấy cái vỏ chăn hoa, một anh trong chi đoàn cắt hộ đôi chim bồ câu với hai chữ lồng bằng giấy dán lên đấy là xong. Sau bữa liên hoan chiều độ 5, 6 mâm gì đó thì buồi tối mới chính thức là lễ thành hôn.

Đang vui như thế thì bỗng từ phía đình làng một hồi trống ngũ liên dội đến. Thế rồi ngoài ngõ vang lên tiếng loa cứ oang oang báo đê Long Tửu đã bị vỡ, nước lụt sắp tràn về. Chính quyền yêu cầu người dân nhanh chóng sơ tán người và gia súc lên vùng cao ở núi Từ Phong và Đông Du.

Tiếng loa cứ nhắc đi nhắc lại mấy câu như thế. Không chỉ có tiếng loa mà bấy giờ trống mõ từ đầu làng tới cuối xóm cứ thúc ầm ầm. Thế là tất cả khách dự cưới nhớn nhác hết cả lên, ai nấy cuống cuồng chạy về nhà lo chạy lụt. Các anh bộ đội cũng lập tức phải chạy ngay về đơn vị. Cuối cùng còn trơ khấc lại đôi vợ chồng mới và người nhà ngơ ngác nhìn nhau. Chị thì chẳng biết làm gì, chỉ biết khóc.

Xe tăng 377 anh hùng

Nhà anh Triển lúc đó là ngôi nhà ngói ba gian, hai chái khá vững chắc nên bố chồng chị quyết định chỉ cho mỗi cậu em út dắt trâu lên Đông Du sơ tán thôi, còn tất cả sẽ ở lại nhà. Cụ cho dỡ rạp, lấy tre đem vào gác lên xà nhà. Một gian thì đưa lên đó đôi vạc giường làm chỗ ngủ cho anh chị. Cụ còn đùa bảo: "Buồng hạnh phúc của anh chị đấy". Gian bên kia thì đưa đồ đạc, thóc gạo lên. Còn cả nhà sẽ ở trên đỉnh đống rạ ngoài vườn.

"Thế thì chú bảo đám cưới của anh chị có buồn không chứ". Chị lại đưa tay dụi mắt.

Tôi cũng thầm cám cảnh cho anh chị. Trận lụt năm 71 thì tôi cũng đã từng chứng kiến, mấy tỉnh đồng bằng Bắc Bộ đã bị nhấn chìm trong nước. Nhưng một đám cưới mà bị nó cắt ngang một cách phũ phàng như vậy, một cái buồng hạnh phúc cho đôi vợ chồng mới cưới 'dã chiến' thời lụt đó chắc cũng không nhiều.

Trấn tĩnh lại một chút, chị cất giọng buồn buồn: "Nhưng như thế đâu đã hết. Những ngày sau đó còn khổ cực hơn nữa chứ. Đã tưởng nằm trên xà nhà là ổn rồi, ngờ đâu nước cứ dâng lên mãi. Đến đêm thứ ba thì ngập luôn cả xà nhà. Hai vợ chồng đang ngủ thì thấy nước xâm xấp dưới lưng, vội vàng trở dậy thì thấy nước đã ngập cả cái vạc giường mà còn tiếp tục lên nữa. Anh Triển vội dỡ mấy viên ngói trên đầu rồi hai vợ chồng chui ra. Chẳng biết chạy đi đâu đành ngồi ôm nhau chờ trời sáng trên nóc nhà".

Sáng ra, thấy đống rạ mà cả nhà đang trú ngụ trên đỉnh vẫn còn cao hơn mặt nước, anh mới dìu chị bơi sang. Thì ra, do rạ nổi được nên nước lên đến đâu, đống rạ lại nổi lên đến đấy như một cái bè, xung quanh lại có bức tường bao nên không trôi đi đâu được. Thế là, cả sáu, bẩy con người phải sống vạ vật trên cái đỉnh đống rạ ấy mất mấy ngày. Đến hôm anh Triển hết phép thì nước vẫn trắng băng, trôi luôn cơ hội hưởng hạnh phúc vợ chồng của anh chị.

Im lặng một lúc, tôi buột miệng: "Thế sau khi anh Triển hy sinh chị có được hưởng chút chế độ đãi ngộ gì không?" thì chị nghẹn ngào: "Có được gì đâu chú. Người ta bảo mình chưa có con với anh ấy, sau lại tái giá nên theo chính sách thì không được gì cả".

Biết mình lỡ lời, tôi cắm cúi ăn và kể vài câu chuyện vui cho bữa cơm đỡ nặng nề. Vui vui lên một chút, chị lại nhẩn nha: "Nói thật với chú, giá chị có với anh Triển một đứa con thì chị cũng sẽ ở vậy mà nuôi cháu chứ chẳng đi bước nữa làm gì. Khổ thân anh Triển, cưới vợ thì khổ sở như thế. Vào chiến trường được mấy tháng đã hy sinh, chẳng để lại được giọt máu nào".

Chị đặt bát cơm xuống nghẹn ngào, mãi mới nói tiếp được: "Quãng qua rằm tháng Tám thì phải, khi nước rút kha khá rồi, mặc dù đường 18 vẫn còn có đoạn ngập tới ngang bụng nhưng anh ấy quyết định phải về đơn vị. Hôm ấy chị đưa anh lên Bắc Ninh bằng xe đạp. Cùng đi còn có một cặp vợ chồng ông anh họ nữa. Tàu hỏa hôm ấy vừa mới chạy lại được vài ngày. Lúc tàu chuẩn bị chạy anh ấy cứ dấm dứt khóc vì anh biết mình vẫn chưa có con. Chị chỉ biết động viên anh ấy: "Chúng mình còn trẻ...". Nào ngờ..."- chị bỏ lửng câu nói rồi bê mâm cơm vào trong.

Vâng! Quả là thế thật. Cho đến lúc đó chị mới 19 tuổi, còn anh cũng mới 23. Còn cả một cuộc đời dài phía trước. Ai mà ngờ được chỉ mấy tháng sau, ngày 24 tháng 4 năm 1972 anh đã hy sinh, để lại chị một đời lỡ dở.

Đứa cháu ngoại trên võng đã dậy, nó không khóc mà chỉ "ọ, ẹ" nho nhỏ. Chắc nó đã đói. Chị lại nựng thằng bé, nó cười như nấc lên từng chặp. Gương mặt chị giãn ra, trở lại vẻ thanh thản đến vô cùng. Dường như tất cả hạnh phúc đối với chị bây giờ chính là những đứa cháu đang ngày một lớn khôn. Tôi tạm biệt chị, hẹn ngày gặp lại. Miệng thì cười đấy nhưng trong lòng vẫn vương vấn chút xót xa. Tôi và đồng đội có thể làm gì giúp chị bây giờ?